Gấp ''SÁCH SAMUEL
DIỄN CA", trong Lời Kết, chúng tôi nhận định: ngoài phương
diện thần học, sách còn thể hiện giá trị nhân văn,
nêu cao văn hoá Bách Việt đề cập nhân vị và nhân bản nhắc
nhở con người phải biết vâng phục Thiên Mệnh ăn ở
cho đúng Đạo Trời hệt như giới răn Chúa đã truyền dạy. Quảng
diễn vấn đề này, xin mời quý vị đọc tiếp:
“Bắt chước ai ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết ở trong đời,
Vua, quan, sĩ thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.”
Mượn lời Chúc Tết trên đây, nhà thơ trào
phúng Tú Xương đã nhắn nhủ mọi người muôn nước từ kẻ trên đến người dưới, hãy
ăn ở sao cho ra “cái giống người”. Nói rằng “giống”, tác giả ngụ ý phân biệt
con người với các loài động vật khác giống, nghĩa là con người và đồng loại với
nhau được xếp ở một ngôi thứ thượng đẳng trong trời đất. Đó là căn tính cội rễ,
là nhân bản làm nên nhân vị
VỊ (位) = chỗ ngồi, ngôi thứ đã được an bài sắp
xếp, gồm chữ nhân (亻) là người ghép bên
cạnh chữ Lập (立) là đứng, tạo dựng
NHÂN (人) hay (亻) là người, là giống khôn nhất trong các loài động vật;
là một người khác với mình, ví dụ: tha nhân là người nào đó không phải là
mình tức là người đồng loại. Cho nên ta nói phải cư xử làm sao cho ra cái giống
người là thế.
NHÂN VỊ là
ngôi thứ của con người mà Thiên Chúa đã an bài sắp xếp cho mình có thế đứng ở
trong trời đất. Thế đứng ấy, Thiên Chúa đã minh định trong Sách Sáng Thế (2:
26-28)
“Chúa truyền: Hãy dựng con người!
Cho mang hình ảnh bởi Trời như ta,
Loài người lập tức hiện ra,
Cho cai quản các loài Ta đã làm.
Chim trời cá biển muông cầm,
Các loài bò sát dưới gầm trời cao.
Con người Chúa dựng đẹp sao!
Chúng mang hình ảnh thanh cao của Người.
Có nam có nữ sánh đôi.
Chúa bèn chúc phúc cho đời an vui,
Sinh sôi nảy nở cả bầy
Cho đầy mặt đất quản cai mọi loài.
Chim trời, cá biển sông ngòi,
Giống bò mặt đất khắp nơi thuộc quyền.“
Ấy là “đội trời đạp đất” là
ngửa mặt nhìn Trời, cúi xuống trông Thiên Hạ, là vâng phục Thiên Mệnh mà cư xử
với Tha Nhân theo Thiên Ý. Thiên Ý ấy tóm gọn trong hai giới răn do chính
CHÚA viết trên hai bia Chứng Ước trao cho Môi-sê. Ấy là Mến Chúa trên hết
mọi sự và Yêu người như yêu chính mình. Ấy là Kính mến Chúa là Cha và yêu
thương đồng loại như anh em một nhà. Cho nên xác định mối tương quan Thiên Địa
Nhân, chữ viết không đơn thuần là một người (亻) nhưng là hai người (nhị nhân 仁) cư xử với nhau theo Đạo Trời, chứ không phải là con người đối với nhau
như chó sói, giống sài lang ("homo lupus est homini"). Sách Luận
Ngữ viết: “Phiếm ái chúng nhi thân nhân” (Yêu khắp mọi người mà gần gũi người
nhân đức). Tử Trương hỏi Khổng Tử về đức nhân. Khổng Tử đáp: “Làm được năm đức
trong thiên hạ thì gọi là nhân. Ấy là cung kính, khoan hậu, tín nghĩa, cần mẫn
và từ ái, ấy là nhân từ khoan dung, quảng đại, chung thủy và
trung thành, siêng năng và lanh lợi, có lòng thương người. “Bất tri Thiên Mênh
vô dĩ vi quân tử dã”, đấy là cách phân biệt người quân tử với kẻ tiểu nhân.
NHÂN BẢN: bản là
gốc cây, là cội rễ, cội nguồn của sự vật. Nói đến Nhân Bản chính là nói nguồn
gốc của con người là do Thiên Chúa tạo dựng:
“Con chim nó hót trên cao,
Nếu không có Trời làm sao có mình”
Nhân bản ấy là căn tính của con người.
Nó phủ nhận tà thuyết bảo rằng thuỷ tổ con người là loài khỉ. Bởi
là dã nhân nên chúng mới coi nhau như chó sói, một lũ sài lang. Khi ấy chúng
không còn nhân vị thượng đẳng là CON người, nhưng là Hạ đẳng THẰNG
người, đó là mượn lời của loài vật nói chuyện với nhau trong Cổ Học Tinh Hoa,
khi con sư tử dè bĩu con trâu ”to xác thế mà để cho THẰNG người đánh đập sai khiến?”
Cho nên nhân bản chủ nghĩa cổ xuý giáo dục
nhân văn, tôn trọng giá trị con người, còn gọi là nhân văn chủ nghĩa. Gọi là
nhân văn, vì văn là vẻ đẹp đặc thù. Nhờ đạo đức lễ nhạc giáo hoá mà có vẻ đẹp
rõ rệt.
Tắt một lời, nhân bản minh thị và đề cao Nhân
Vị là thượng đẳng so với muôn loài.
Ben. Đỗ Quang Vinh