CN 29 TN B LE TRUYEN GIAO
Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mc 16,15-20
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi lòai thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ. Còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây là những dấu lạ sẽ di theo những ai có
lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.
(18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và
nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe.
(19) Nói xong Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn
các Tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họat động với các ông, và
dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
2. Ý CHÍNH:
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo
Tin Mừng Nước Trời khắp thế gian. ai tin và chịu phép rửa thì sẽ nên dưỡng tử
của Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ. còn kẻ không tin là tự loại mình ra khỏi
Nước Trời và sẽ bị kết án. Cuối cùng Đức Giêsu còn hứa ban cho các ông quyền làm
nhiều phép lạ. Các môn đệ đã vâng lời Thầy đi khắp nơi loan Tin Mừng.
3. CHÚ THÍCH:
-
C 15-16: + Anh
em hãy đi
khắp tứ phương thiên hạ:
Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu chỉ được sai đến cùng các
con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. nhưng sau khi phục sinh, Người lại trao cho các
Tông đồ sứ mạng phổ quát đến với muôn dân
+ Loan
báo Tin Mừng:
theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Euaggelion) là một “Tin Vui, Tin Mừng”. Có thể hiểu Tin
Mừng Đức Giêsu theo hai nghĩa: Một là chính “Tin Mừng được Đức Giêsu công bố”.
Hai là “Tin Mừng về Đức Giêsu”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống
lại của Người.
+
cho mọi loài thọ tạo:
Nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo vật nên “Trời
Mới Đất Mới” vào ngày tận thế (x. Kh 21,1).
+ Ai
tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ:
Tin là mở lòng đón nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép rửa
là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới, dưỡng tử của Thiên Chúa để
được sống đời đời.+
còn ai không tin thì sẽ bị kết án:
Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng
để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì
đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành
nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giêsu, nên sẽ bị khô héo và bị quăng vào
lửa đời đời (x. Ga 15,5-6).
+ Còn những người không tin Đức Giêsu nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn
cứu độ không?:
Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa
sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ
cố tình làm tay sai cho ma quỷ, làm điều gian ác và không chịu hồi tâm thì chắc
chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra “dành cho tên Ác Quỷ và các
sứ thần của nó” (Mt 25,41).
-
C 17-18: + Đây
là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin:
Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức
Giêsu đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để các ông xua trừ chúng và
chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi
về trời, Đức Giêsu lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông.
+ Nhân
danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được
rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên
những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe:
Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các
Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh
Thần, bắt đầu
nói các thứ tiếng khác lạ
(x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ
nói các thứ tiếng lạ
(x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay
các Tông đồ (x. Cv 5,12). Ông Phê-rô
đặt tay
trên
bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần
ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). còn Tông đồ Phao-lô thì chữa lành một
người bị bại chân
tại Ly-tra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô
đã bị rắn độc bám vào tay cắn mà không hề hấn gì
(x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và
đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân
(x. Cv 28,8-9); Ngay cả
chiếc áo ông mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải
xuất ra
(x. Cv 19,11; 20,9-12).
-
C 19-20: +
Chúa Giêsu được rước lên trời:
Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác
Đức Giêsu cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn
lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa.
+
và ngự bên hữu Thiên Chúa:
Đức Giêsu đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với
quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+
ra đi rao giảng khắp nơi:
các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giêsu, đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức
Giêsu tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận
cùng trái đất (x. Cv 1,8).
+
có Chúa cùng hoạt động với các ông...:
Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban
Thánh Thần để Hội thánh tha tội cho người ta giống như Người (x Ga 20,21-22).
Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn lao hơn Người nữa, đó
là đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc với quyền năng Thánh Thần
(x Ga 14,12).
4. CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi?
Các Tông đồ được Đức Giêsu sai đến với những ai?
2) Tin Mừng Đức Giêsu có những ý nghĩa nào?
3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giêsu?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị sa vào hỏa ngục? Những người chưa có đức Tin, nhưng
theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giêsu
đã ban cho các ông những quyền nào?
6) Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mệnh loan Tin mừng cho các Tông đồ kèm
theo những dấu lạ nào?
7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo Lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng
nghiệm thế nào vào thời Giáo Hội sơ khai?
8) Thời Cựu Ước, Ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào
cũng được lên trời? Chúa Giêsu thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức
Maria thế nào?
9) Người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết, có được hưởng ơn cứu độ của Chúa
Giêsu ban cho không?
10) So sánh Lời Chúa Giêsu truyền cho các Tông đồ trước khi lên trời là “Hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”(x Mt 28,19) và “Hãy nên chứng nhân của
Thầy...” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
11) Sau khi lên trời, Chúa Giêsu còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh với sứ mạng gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các
miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
2. CÂU CHUYỆN: VIÊN NHẠC SĨ VÀ CHIẾC VĨ CẦM QUÍ GIÁ
PHÍT KÂY-DƠ-LÊ (fritz
kreisler) (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo
được một tài sản đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng
cho đi gần hết những của cải kiếm được. Do đó, trong một chuyến đi lưu diễn, ông
phát hiện ra một cây vĩ cầm rất đẹp và âm thanh của nó nghe thật tuyệt vời,
nhưng ông lại không có đủ tiền để mua ngay. Sau một thời gian để dành, khi ông
mang tiền đến mua thì cây vĩ cầm kia đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ.
Phít theo địa chỉ tìm đến chủ nhân mới của cây vĩ cầm để xin được mua lại. Nhà
sưu tầm lúc đầu không muốn bán, vì theo ông ta cây đàn này là một bảo vật quí
giá. Phít cảm thấy chán nản thất vọng. Tuy nhiên trước khi ra về, ông nảy ra
sáng kiến và nói với người chủ mới của cây đàn như sau: “Tôi xin phép được chơi
một bài trước khi cây đàn này bị rơi vào cỏi thinh lặng”. Được chủ nhân đồng ý,
viên nhạc sĩ tài ba này đã làm cho ông chủ cây đàn vô cùng xúc động khi nghe
được tiếng đàn du dương réo rắt của nó qua bàn tay tài hoa của ông, đến nỗi ông
ta đã phải thốt lên: “Này Kây-dơ-lê ơi! Tôi không có quyền giữ cây đàn này. Nó
thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới, để thiên hạ được thưởng thức âm
thanh tuyệt vời của nó”.
3.THẢO LUẬN:
1) Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu
truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không ?
2) Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn
giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim
con người hôm nay không ?
3) Trong xã hội hôm nay, chúng ta cần rao giảng Tin Mừng cho anh em lương dân
bằng cách nào để đạt hiệu quả nhất ?
4. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải truyền giáo? :
Có người lên tiếng chỉ trích công việc truyền giáo của Hội thánh Công giáo cho
lương dân. Theo họ: “Đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy người ta phải ăn ngay
ở lành và đều bắt nguồn từ Trời, nên cần chi phải rao giảng về đạo Công giáo cho
ngừoi ta? Tốt hơn là cứ khuyên họ hãy sống thật tốt theo đúng tôn chỉ của đạo
giáo mà họ đang theo”. Thực ra, nếu xét về mặt luân lý tự nhiên thì xem ra mọi
tôn giáo đều tốt và đều dạy người ta hướng thượng, ăn ngay ở lành, giữ đức công
bình và sống từ bi nhân ái. Nhưng về mặt tín lý, giáo lý của các đạo giáo chỉ là
thứ chân lý chủ quan, có nhiều sai lạc và làm méo mó đi hình ảnh của Thiên Chúa.
Do đó, các tôn giáo nói chung không thể có giá trị ngang nhau cả về tín lý và
luân lý. Ta có thể ví chân lý của các tôn giáo nói chung giống như ánh sáng lờ
mờ của cây đèn dầu, và còn sai lầm khi tôn thờ những con người hay thú vật để
được phù trợ ban ơn… Còn chân lý của đạo Công giáo do phát xuất từ Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa làm người như Người đã nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật
và là sự sống. ... Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đạo
Công giáo ví như ánh sáng chói chan của mặt trời chính ngọ, giúp các tín hữu
nhận biết, tôn thờ yêu mến một Thiên Chúa tòan năng chân thật, nhờ đó, họ sẽ
nhận được hạnh phúc và sự sống đời đời như công đồng Vaticanô II đã dạy: “Tất cả
những gì tốt lành chân thật trong các tôn giáo chỉ có giá trị như để chuẩn bị
cho họ lãnh nhận Tin Mừng, và như một hồng ân mà Đấng soi sáng mọi người ban
cho, để cuối cùng họ sẽ được sống đời đời” (LG số 16).
Để qui tụ tất cả con cái loài người đã bị tội lỗi làm cho tản mác và đi lạc
đường, Thiên Chúa muốn tập họp toàn thể loài người trong Hội thánh của Đức Giêsu
là Con yêu dấu của Ngài. Hội thánh là nơi loài người tìm thấy Thiên Chúa và sẽ
được hưởng ơn cứu độ. Hội thánh là thế giới đã được hòa giải, là con tàu giúp
vượt đại dương trần gian nhờ cơn gió mạnh là Thánh Thần, với cánh buồm là thánh
giá Đức Ki-tô. Hội thánh cũng được ví như con tàu duy nhất của tổ phụ Nô-e giúp
loài người thoát khỏi cơn đại hồng thủy (x. 1 Pr 3,20-21).
2) Sứ vụ truyền giáo của Hội thánh bắt nguồn từ đâu? :
Đức Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28,19-20). Người cũng dạy môn đệ hãy làm chứng nhân
cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền
Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Như vậy sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là một
việc tuỳ sở thích như lời thánh Phaolô: "Đối với tôi rao giảng Tin mừng không
phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân
tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16). Công việc truyền giáo đòi
hỏi nhiều kiên trì dù có gặp thất bại, dù thân xác đã bị mệt mỏi rã rời và cả
khi gặp những trắc trở như lời thánh Phaolô: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên
tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Nhờ ơn Thánh
Thần của Chúa Phục Sinh trao ban, Hội thánh thời sơ khai đã hăng hái chu toàn sứ
vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời đi khắp thế gian. Các Tông đồ nhờ ơn soi dẫn của
Chúa Thánh Thần, đã theo lối sống đơn giản vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm
tốn phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người bất hạnh để giới thiệu Đức
Giêsu là Đấng Cứu Thế cho mọi dân mọi nước, để ai tin và chịu phép rửa tội sẽ
được gia nhập Nước Trời để được hưởng ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng đời này và
đời sau. Còn những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giêsu là đã tự loại mình ra khỏi
ơn cứu độ do Người mang đến.
3) Truyền giáo cụ thể là truyền điều gì? :
Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng một số chân lý về Chúa, nhưng là truyền
đức tin mà chính mình đã có được sau khi đã gặp gỡ thân tình với Chúa cho người
chưa biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa như mình, giống như cách thức ông Anrê đã
làm sau khi tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người cho
người em của mình là Simon Phêrô (x. Ga 1,40-42). Hoặc như ông Philipphê sau khi
gặp và tin Đức Giêsu đã dẫn bạn là Nathanaen đến gặp Người (x. Ga 1,45-51).
Truyền giáo bằng cách truyền đức tin yêu Chúa sẽ có sức lay động lòng người
khác hơn là chỉ cố gắng trình bày giáo lý công giáo cho người chưa tin.
Để chu toàn sứ mạng thông truyền đức tin cho người khác, trước hết chúng ta cần
phải củng cố đức tin của mình vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, bằng
việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày dưới ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần
và cầu xin Chúa gia tăng đức tin cậy mến cho mình, trước khi “đi bước trước” làm
quen người chưa nhận biết Chúa, theo cách Đức Giêsu đã làm bên bờ giếng Giacóp:
Người đã mở lời xin nước uống để làm quen với người phụ nữ Samari, rồi sau đó
từng bước trình bày cho chị về thứ Nước Hằng Sống được ban cho những ai tin vào
Người (x. Ga 4,7-10). Rồi sau khi đã tin Đức Giêsu, chị ta đã về làng loan báo
Đức Giêsu cho dân làng biết và đã dẫn họ ra bờ giếng để gặp Đức Giêsu (x Ga
4,25-30).
4) Phải truyền giáo bằng cách nào cho hữu hiệu? :
Ngày nay mỗi tín hữu do bí tích rửa tội và thêm sức đã lãnh nhận, cũng có sứ vụ
góp phần với Hội thánh để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho những người chưa tin
bằng một số phương cách như sau:
- Bằng việc “tân phúc âm hóa” đời sống mỗi người và mỗi gia đình tín hữu:
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta
phải hiểu biết Chúa và tin yêu Chúa. Một người không tin Chúa hoặc chỉ có đức
tin nông cạn thì không thể “nói về Chúa” cách hữu hiệu được. Tiếp đến, người làm
chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì lời chứng mới đáng tin và mới có sức
thuyết phục được người khác tin theo. Thực vậy, một người nói về Chúa mà không
sống những điều mình nói thì không thể làm cho người nghe tin được, có khi họ
lại còn diễn giải sai lạc về giáo lý của Hội thánh nữa. Trong Thư Chung của Hội
đồng Giám mục Việt Nam gần đây có kêu gọi các thành phần Dân Chúa, nhất là các
linh mục, hãy nhiệt thành cộng tác để đổi mới phương cách loan báo Tin Mừng cho
phù hợp với thời đại hiện nay, nhờ đó, hy vọng sẽ đem lại cho Hội thánh Việt Nam
một mùa lúa chín dồi dào. Nói cụ thể, các vị chủ chăn muốn mỗi người tín hữu
công giáo hãy dành ra thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức
là liệu sao cho việc học giáo lý hôn nhân được nghiêm túc hơn, và tổ chức thường
xuyên giờ Kinh Tối gia đình canh tân để thêm phần suy niệm Lời Chúa. Những việc
làm đó sẽ giúp củng cố tình yêu giữa các thành viên trong gia đình và giúp giáo
dục Đức tin ngày một tốt hơn cho các thế hệ tương lai.
- Bằng cuộc sống chan hòa tình thương giữa cộng đoàn:
Chính đời sống yêu mến nhau giữa các tín hữu thời Hội thánh sơ khai đã khiến
toàn dân thương mến (Cv 2,47a), thì đời sống hiệp nhất yêu thương của các xứ đạo
hôm nay cũng sẽ trở thành một cộng đoàn được người lương nhìn bằng ánh mắt thiện
cảm. Đó cũng là phương cách để ca tụng Chúa và giúp "càng ngày càng có nhiều
người gia nhập Hội thánh" (Cv 2, 47b). Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi
chúng ta hãy quan tâm giúp đỡ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả vật chất
nữa, không chỉ trong nội bộ công giáo mà còn cả với anh em lương dân chung
quanh. Đồng thời sự yêu thương này cũng gồm cả xóa bỏ những hận thù ganh ghét
giữa các thành viên trong cộng đoàn, mỗi người cần sẵn sàng đón nhận nhau trong
tình bác ái huynh đệ, "dĩ hòa vi quý", nâng đỡ đùm bọc nhau để biến giáo xứ trở
thành một cộng đoàn chan hòa yêu thương, chia sẻ và cảm thông. Đó chính là dấu
chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giêsu và nên chứng nhân của Tin mừng giữa
lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
- Bằng việc “đi bước trước” đến với anh em lương dân:
Cụ thể, trong những ngày này, mỗi người tín hữu sẽ noi gương Mẹ Têrêxa để kết
thân với một người lương, coi họ như anh chị em trong gia đình ruột thịt để quan
tâm giúp đỡ họ. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân,
sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi: Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc, hai bên hãy mời
nhau đến hiệp thông để thắt chặt mối giây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng sẽ ngày
một lan truyền như ánh nến lễ đêm Vọng Phục Sinh được truyền từ tay người này
sang tay người khác.
- Bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cách cụ thể:
Mẹ Têrêxa Calcutta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu
thương cụ thể. Mẹ không rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng tâm tình yêu mến kèm
theo cử chỉ thân thương đối với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ
cũng không chủ trương yêu thương cách chung chung, nhưng là yêu thương từng con
người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan
trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải
đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là
hiện thân của Đức Kitô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong
giây phút đó.” Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm của nhiều người
trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo hội công giáo Hàn Quốc đã gia
tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong mười năm!
5. NGUYỆN CẦU:
-
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo. Xin giúp chúng con trở nên
chứng nhân giúp người khác nhận biết và tin yêu Chúa bằng lời nói việc làm của
chúng con: Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo các tiện nghi để hưởng thụ, xin
cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống đơn sơ trong cách ăn ở và tiêu dùng của
cải vật chất. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho chúng con
tránh thói tham lam, chỉ lo thu tích cho mình, nhưng biết quảng đại chia sẻ cho
người bất hạnh. Giữa một thế giới khinh thường người nghèo, xin cho chúng con
biết quí trọng phẩm giá của mọi người. Giữa một thế giới bị mất phương hướng,
xin cho chúng con giúp họ nhận biết tin yêu Chúa và phục vụ tha nhân, hầu tìm
thấy ý nghĩa cuộc đời.
- Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội thánh được ví như một thân thể gồm
nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết
nhất và cao quý nhất tà trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình
yêu làm cho Hội thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì
các Tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình... Lạy
Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là
tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội thánh: nơi Trái Tim Hội
thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi
ơn gọi trong Hội thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của
con được thực hiện (Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu).
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA.-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM