HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN A
Is 8,23b-9,3; 1 Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Mt
4,12-23
(12) Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp,
Người lánh qua miền Ga-li-lê. (13) Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở
Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun
và Náp-ta-li. (14) Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói : (15) “Này
đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả
ngạn sông Gio-đan. Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại ! (15) Đoàn dân
đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những
kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi !” (17) Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng
và nói rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (18)
Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông
Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài
xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. (19) Người bảo các ông :
“Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới
người như lưới cá”. (20) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo
Người. (21) Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông
Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang
cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các
ông. 22) Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. (23)
Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội
đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh
hoạn tật nguyền của dân.
2. Ý CHÍNH :
Nghe tin
Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giê-su từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để
tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại
như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Ngươi chọn thành Ca-phác-na-um làm trung
tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời.
Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau : “Anh em hãy sám hối vì
Nước Trời đã gần đến”. Đức Giê-su cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2
đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ.
Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và
các người làm công. Nghe Đức Giê-su kêu gọi, các ông lập tức từ bỏ
tất cả mà theo làm môn đệ của Người.
3. CHÚ THÍCH :
- C 12-13 : + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp : Thánh
Mát-thêu dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt” khi nói về Gio-an, giống
như khi nói về Đức Giê-su (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số
phận của Gio-an giống như Đức Giê-su. Dùng từ “bị nộp” ở thể thụ
động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giê-su
bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mệnh tiền hô dọn đường. +
Người lánh qua miền Ga-li-lê : Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức
Giê-su lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để
khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các
môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mệnh mà
Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở
Ca-phác-na-um : Đức Giê-su đã không chọn quê hương Na-da-rét,
nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mệnh rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê :
Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc
Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).
- C 14-16 : + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a
nói : I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc
Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân
Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh
“tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của
dân ngoại : Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có
nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị Ngôn sứ nào
xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động
của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. +
Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm : Mát-thêu ứng dụng việc
Đức Giê-su đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc
rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giê-su
biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu
rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt
28,16-20).
- C 17-18 : + Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao
giảng và nói : Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giê-su
bắt đầu thi hành sứ mệnh cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được
Mát-thêu tóm gọn trong câu : “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến
gần”. Đây cũng là nội dung mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ khi sai
các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + “Anh em hãy sám hối” : Câu này
giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì
Nước Trời đã đến gần : Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên
Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên
Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người trong điều
răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là
một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con
người và sứ vụ của Đức Giê-su. + Biển hồ Ga-li-lê : Là một biển
hồ hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ
Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô : Si-mon
là tên của Phê-rô trước khi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su đã đổi tên
Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng Đá” (x. Mt 16,18).
- C 19-20 : + Kẻ lưới người như lưới cá : Đức
Giê-su sẽ trao sứ mệnh đánh lưới các linh hồn người ta, giống như đi
chài lưới bắt cá. + Lập tức bỏ chài lưới : Đây là
thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su :
bỏ nghề cũ để theo nghề mới.
- C 21-23 : + Gia-cô-bê : Đây là Gia-cô-bê
Tiền nghĩa là theo Chúa trước, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa
sau. Gia-cô-bê với em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba
người thân tín của Đức Giê-su. Nhóm này được đi theo Đức Giê-su và được
chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn,
ba người này cũng được theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến
Người cầu nguyện trước khi bị bắt (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền
bỏ cha… : Cũng như Si-mon và An-rê lập tức bỏ nghề, Gia-cô-bê
và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người
thân là cha già mà theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Đức Giê-su đi khắp miền
Ga-li-lê : Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giê-su và các
môn đệ đi đây đi đó khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. +
Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân : Viêc chữa bệnh
là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).
4. CÂU HỎI :
1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an
bị nộp” thay vì “bị bắt”? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám
hối tại miền nào, và Đức Giê-su khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước
Trời tại miền nào ? 3) Đức Giê-su đã làm gì để chiếu soi ánh sáng
huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết ?
4) Lời giảng của Đức Giê-su được tóm lại trong câu nào ? 5) Tại sao
Mát-thêu dùng từ “Nước Trời đã đến gần” thay vì “Nước Thiên Chúa đã
đến gần” như Lu-ca ? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê ? 7) Phê-rô là
ai ? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giê-su đổi tên khi nào ? 8)
Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê ? Tại sao lại gọi là Gia-cô-bê
Tiền hay Gia-cô-bê Hậu ? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay
chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa ? 10) Đức
Giê-su nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng như thế nào ? Người thi hành sứ mệnh bằng những việc
gì ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA :
1. LỜI CHÚA :
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời”
(Mt 5,16).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MAU MẮN ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA KÊU GỌI :
Ơn gọi của
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta là một thí dụ. Mẹ
sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lo-ret-tô ở Ái Nhĩ
Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời
cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc
những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ
trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua
một đường phố ở Can-quýt-ta,
Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến
gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ
nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân
sắp chết. Từ biến cố này, Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hãy
dấn thân cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ đã xin ra khỏi dòng, đến sống ở
một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là
người sáng lập nên một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người
nghèo khổ trên khắp thế giới.
2) THÓI THAM LAM ÍCH KỶ LÀ NGUỒN GỐC
PHÁT SINH MỌI TỘI ÁC :
Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo.
Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với các thánh.
Gặp thời kỳ phải cạnh tranh gay gắt trong công việc làm ăn, anh ta lại càng đi cầu
khấn gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm một sứ thần đã
hiện ra với anh và nói : "Thấy con thành tâm cầu xin nên Chúa không nỡ
chối từ và sai ta đến với con. Vậy bây giờ con hãy cho ta biết con ước muốn điều
gì, để ta sẽ thay quyền Chúa ban cho... Đồng thời để chứng tỏ cho loài người biết
lòng quảng đại của Thiên Chúa, thì hễ con nhận được một điều gì, thì Chúa nhân
từ cũng sẽ ban cho các đồng nghiệp hay hàng xóm của con được gấp đôi như thế".
Nghe sứ thần phán, lòng anh thương gia
từ chỗ vui mừng hân hoan biến thành sầu buồn tức giận. Anh tự nhủ : "Nếu
bây giờ mình xin một chiếc Le-xus thì mấy thằng bạn... sẽ được hai chiếc. Ái
dà, thế thì không được ! Nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà
hàng xóm... sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được ! Còn nếu mình xin được
vợ đẹp con khôn thì đồng nghiệp của mình lại sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con
khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng có tới hai vợ, còn mình
chỉ có một... Trong thời buổi cạnh tranh thế này thì mình phải làm sao để được hơn
bọn chúng chứ ! ".
Anh nhà buôn nhíu mày suy nghĩ đắn đo.
Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì
xuống và thưa với sứ thần : "Lạy Sứ thần, xin cầu cùng Chúa cho con bị đui
một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu quái lạ ! Anh ta
không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác lại được may lành gấp đôi.
Cuối cùng anh đã xin cho mình bị rủi ro để kẻ khác sẽ bị hại gấp đôi mình, là xin
cho anh bị đui một con mắt để những kẻ kia bị mù cả hai mắt luôn. Đây thật là
một con người tiểu nhân và quá nhẫn tâm !!!
3) VIỆC BÁC ÁI LÚC CÒN SỐNG ĐÁNG QUÝ HƠN
SAU KHI CHẾT :
Một người kia rất giàu tiền bạc
của cải. Ông có lòng tốt dự định sẽ di chúc lại toàn bộ tài sản của
mình sau khi chết để các tổ chức từ thiện lo phục vụ cho người nghèo.
Nhưng đi đến đâu ông cũng chỉ nhận được những cái nhìn khinh thường
của mọi người. Ông ta liền tìm đến một ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan
và hỏi : “Thưa thầy, tại sao dù tôi đã làm chúc thư để lại toàn bộ
gia sản lớn lao của tôi cho các công việc từ thiện bác ái, thế mà
nhiều người vẫn nghĩ tôi là loại người keo kiệt và khinh thường tôi.
Vậy tôi phải làm gì để họ biết về lòng quảng đại của tôi và kính
trọng tôi hơn ?”
Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi
của người giàu có kia, vị ẩn sĩ đã kể cho ông ta nghe một câu chuyện
như sau : “Có một chú heo nọ một hôm gặp chị bò sữa liền mở miệng
than thở như thế này : Này chị bò, tôi và chị đều cống hiến thịt
mình làm thức ăn cho loài người. Thế mà thật đáng buồn ! Tôi thấy
họ tỏ ra thân thiện và âu yếm vuốt ve chị. Còn tôi thì lại bị khinh dể
xa lánh ?” Ngẫm nghĩ một lát rồi chị bò cái mới ôn tồn trả lời
chú heo rằng : “Quả thật cả hai chúng ta đều cung cấp cho loài người
thịt để ăn sau khi chúng ta chết. Nhưng sở dĩ họ quí mến tôi hơn chú,
theo tôi nghĩ có lẽ là vì ngay từ bây giờ đang lúc còn sống, mỗi
ngày tôi đều cống hiến cho họ sữa tươi để uống chăng ?”
Câu trả lời của chị bò sữa dạy chúng
ta : “Của cho không bằng cách cho” và “Một miếng khi đói bằng một gói
khi no”. Cho người khác những cái họ đang cần thì tốt hơn để lại chúc
thư cho họ của cải sau khi mình chết, khi mình không thể sử dụng được
nữa. Điều người khác cần nơi chúng ta không những là tiền bạc của
chúng ta, mà chính là tình thương và s+
ự quan tâm của chúng ta. Muốn được
người khác quý mến kính trọng thì chúng ta phải quan tâm đến kẻ khác
trước, cởi mở tâm hồn với họ, mở rộng trái tim để yêu thương và sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu của họ.
5) QUẢNG ĐẠI DẤN THÂN PHỤC VỤ NGƯỜI
NGHÈO :
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc
gia đã bầu ALBERT SCHWEITZER làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau (1952).
Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế
giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng : Ông vừa là một triết gia lừng danh,
một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn
nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.
Nhưng điểm nổi bật nhất nơi ông là niềm
tin Ki-tô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành “người hùng của
thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và
khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người
thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh
nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi một
số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi
tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác
sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của ông lập tức bị phản đối
ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của
ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy
nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của mình. Năm 38 tuổi,
ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi Châu mở một
bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã
suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để đêm ngày tận
tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu
thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965, hưởng thọ 90
tuổi.
Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến
ông Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm
việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu ?
Theo lời ông, thì một trong những động
cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giê-su.
Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Chúa và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân
phục vụ dân nghèo ở Phi Châu như có lần ông đã phát biểu : “Tôi không thể hiểu
được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế, đang khi
chung quanh tôi còn biết bao người đang quằn quại trong đau khổ”.
3. SUY NIỆM :
1) ĐỨC GIÊ-SU VỀ MIỀN GA-LI-LÊ :
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã không chọn thủ
đô Giê-ru-sa-lem, tuy hầu hết theo đạo Mô-sê, nhưng vua chúa thì độc ác, đã từng tìm bách hại
Người ngay từ khi mới sinh và gần đây còn ra lệnh chém đầu Gio-an là vị Tiền Hô dọn đường cho Người. Còn các đầu mục Do thái là các thượng tế, kinh
sư, và biệt phái thì lòng chai dạ đá, không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không
theo ý mà họ đang mong chờ.
Đức Giê-su đã chọn Ga-li-lê-a
là vùng dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do thái, nhưng lại sẵn sàng đón nhận Tin
Mừng Nước Trời của Người. Ga-li-lê-a còn là miền đất bị người Do thái khinh
miệt, coi là của ngoại bang. Ngay từ ban đầu Đức Giê-su đã không đóng khung Tin
Mừng Nước Trời trong Đền thờ, vì Người muốn Giáo Hội Người thiết lập phải không
ngừng ra đi, đến với mọi dân tộc, ngôn ngữ, nhất là đến với những người nghèo
khó, bệnh tật, tội lỗi và bị bỏ rơi.
2) ĐỨC GIÊ-SU KÊU
GỌI 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN :
Đức Giê-su
không làm việc một mình, nhưng Người muôn cho có nhiều người cùng hợp
tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người mời gọi hai anh em Si-mon Phê-rô và An-rê: “Các anh
hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như
lưới cá”. Người cũng gọi hai anh em con ông Giê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đi
theo làm môn đệ của Người (x. Mt 4,19-21). Sau đó Người vào giảng dạy trong các
hội đường Do thái, rao giảng Tin Mừng và chữa hết các bệnh hoạn tật
nguyền của dân (x. Mt 4,23). Người không đóng khung ở một nơi, nhưng luôn đi
từ làng này sang làng khác, để thi hành sứ vụ như Người đã nói: “Chúng ta hãy
đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì
Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).
3) TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ THỜI CHÚA GIÊ-SU :
Đức Giê-su không lựa
chọn môn đệ ở trong Đền thờ, nơi có nhiều nhà thông hiểu Kinh thánh và Lề luật,
nhưng chọn môn đệ là những người thuyền chài ít học, sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
- PHẢI CÓ TINH THẦN TỪ BỎ : Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi
hai ông Si-mon và An-rê : “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới
người như lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Gia-cô-bê và Gio-an .
Thái độ của họ là lập tức bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già và những
người làm công mà đi theo làm môn đệ Người (x. Mt 4,20.22);.
- CÁC ĐỨC TÍNH CỦA
NGƯỜI TÔNG ĐỒ :
Ngoài việc từ bỏ mọi sự, các ông còn cần tin Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai
(x. Mt 16,16) và trung thành theo Người đến cùng (x. Ga 6,67-69); Các ông phải
có lòng khoan dung tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và biết tế nhị khi sửa lỗi cho
nhau (x. Mt 18,15-17); Phải có tinh thần khiêm hạ để phục vụ tha nhân noi gương
Đức Giê-su (x. Mt 20,24-28); Phải có lòng mến Thầy hơn những người khác (x. Ga
21,15-17), vì lòng mến là điều kiện cần phải có để được Chúa tha tội (x. Lc
7,47) và để có thể hăng say rao giảng Tin Mừng (x. 2 Cr 5,14); Cần biết xin ơn
Chúa trợ giúp :
“Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5); Phải khôn ngoan phòng
tránh các cạm bẫy và luôn công minh chân thật để gây được thiện cảm với mọi
người (x. Mt 10,16); Phải can đảm để làm chứng cho Chúa (x. Mt 10,23) và không
chùn bước trước các đe dọa cấm cách (x. Mt 10,26-31); Phải sống yêu thương
hiệp nhất với nhau, vì là dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x.
Ga 13,34).
4) HÀNH TRÌNH LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY :
Đức Giê-su
đã kêu gọi các môn đệ và các ông đã mau mắn đáp trả bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi
theo, để được sống thân tình với Người, được Người sai đi thực tập truyền giáo
và cuối cùng phải “Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,46-47).
Loan báo
Tin Mừng trong thế giới và trong xã hội Việt Nam hôm nay, không phải chỉ lo về số lường là làm cho nhiều người
lương được chịu phép
rửa tội, nhưng trước hết phải lo
về chất lượng là để tinh thần Tin Mừng thấm nhập trong tư tưởng lời
nói, cách ứng xử của mỗi tín hữu. Rồi phải làm sao để làm cho gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình
được hiệp nhất yêu
thương để luôn có niềm vui
và sự bình an.
4. THẢO LUẬN :
Kèm theo lời giảng, Đức Giê-su đã chữa bệnh và
trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm
theo việc rao giảng, để dễ được người nghe đón nhận ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa
qua thái độ luôn tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm
cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không
phải lúc nào cuộc sống cũng là màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng
con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và muốn bỏ cuộc. Nhưng xin
Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý
thức rằng : “Một vị
thánh buồn là một vị thánh đáng buồn !”. Ước gì chúng con luôn thấy
mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn
mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp
trường học con đang sống được tràn đầy niềm vui và ơn cứu độ của
Chúa.
LM ĐAN VINH - HHTM