KHIÊM HẠ VÀ KIÊN TRÌ TRONG NIỀM CẬY TIN
1. Bối cảnh
của trình thuật
Tia và Siđôn là những
thành phố trên bờ biển Địa Trung Hải, thuộc Liban ngày nay. Siđôn nằm cách
Tyrô 36km về hướng Bắc, có độ tuổi khoảng 4000 năm trước Công nguyên, được đặt
theo tên của Siđôn, con trai của Canaan; Canaan là con trai của Kham, một trong
ba người con trai của Noê; Nôê là người đã đóng một chiếc tàu khổng lồ cứu muôn
loài khỏi trận đại hồng thủy: “Các con trai
ông Nôê ra khỏi tàu là: Sêm, Kham và Giaphét; ông Kham là cha của ông
Canaan…Ông Kham, cha ông Canaan, thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở
ngoài biết…Ông Sêm và ông Giaphét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai
mình, rồi đi giật lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ
không trông thấy chỗ kín của cha. Khi tỉnh rượu, ông Nôê hay biết điều mà đứa
con nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; ông liền nói: "Canaan đáng bị
nguyền rủa! Nó phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó!" Rồi ông
nói:"Chúc tụng Chúa, là Thiên Chúa của Sêm; Canaan phải là đầy tớ nó! Xin
Thiên Chúa mở rộng Giaphét, nó hãy ở trong lều của Sêm, và Canaan phải là đầy tớ
nó!" (Stk 8: 18-27)). Đối với người Do Thái vào thời Chúa Giêsu, Siđôn
đồng nghĩa với sự gian ác. Còn Tia được xây dựng bởi những người ban đầu đến từ
thành phố Siđôn với nhiệm vụ thiết lập một bến cảng mới, cho nên được coi là thành
phố chị em của Siđôn. Những thành phố này chưa bao giờ là một phần của Galilê
nhưng ở gần biên giới đông bắc của Galilê. Vào thời Chúa Giêsu, hai thành này ở
bên ngoài lãnh thổ của Hêrôđê Antipater, biệt danh
Antipas, thủ hiến của Galilê và Pêrêa sau cái chết của cha mình là Hêrôđê Cả
(Hêrôđê Cha). Hêrôđê Antipas cai trị Galilê và Pêrêa với tư cách là chư hầu của
La Mã và xây dựng các công trình bao gồm thủ phủ Tiberia trên bờ Biển hồ Galilê,
còn gọi là hồ Ghennêxarét, để vinh danh người bảo trợ của mình là Hoàng đế La
mã Tiberius bấy giờ. Như vậy, Siđôn và Tia là hai thành phố của dân ngoại. Chúa
Giêsu “lui về miền Tia và Siđôn” (Mt
15:21) này, là để tránh sự chú ý của Hêrôđê Antipas, kẻ vừa cho chém đầu Gioan
Tẩy giả, có thể gây hại cho sứ mạng của Ngài: “Thời ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những
kẻ hầu cận rằng: "Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy,
nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Chúa Giêsu cũng muốn tránh
đối đầu với nhà cầm quyền Do Thái khi chưa thực sự cần thiết, vì “Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư
từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói rằng: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền
thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15: 1-2). Nhất
là Ngài muốn tiếp tục tập trung vào việc huấn luyện các Tông đồ của Ngài như
Ngài đã làm trong khoảng thời gian vừa qua: các bài giảng bằng dụ ngôn về Nước
Trời (Mt 13), phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 14: 13-21), đi trên mặt biển mà đến
với các môn đệ (Mt 15: 22-33), và rao giảng cho những người Do Thái sống tha
hương tại đó.
Hầu hết cư dân của thành Tia
và Siđôn là người thờ các thần ngoại giáo, như đã được thuật
lại trong sách Thủ lãnh: “Con cái Israel
lại làm điều dữ trái mắt Chúa và làm tôi các thần Baan và Áttôrét, các thần của
người Aram, các thần của người Siđôn…” (Thủ lãnh 10:6), và trong quyển thứ
I sách các Vua: “Vua Salômôn yêu nhiều
người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pharaô, còn có các bà thuộc dân Môáp,
Ammon, Êđôm, Siđôn, Khết,
những dân mà Chúa đã truyền cho con cái Israel là "các ngươi không được đi
lại với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn
chúng sẽ làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng” (1 V 11: 1-2). Theo sách Sáng thế ký: “Canaan sinh ra Siđôn, là con đầu lòng” (Stk 10: 15). Như thế, thành Siđôn có mối liên quan rất
gần gũi với những người Canaan, và là một trong những thành đầu tiên được định
cư bởi người Canaan. Thánh Mátthêu gọi người phụ nữ trong đoạn Tin mừng hôm nay
là “một người đàn bà Canaan, ở miền ấy”
(Mt 15: 22), chỉ ra rằng bà ấy là một người ngoại giáo, dân của một thành thờ
các thần ngoại giáo. Điều đó cho thấy đức tin của bà vào Chúa Giêsu là rất đáng
chú ý.
2. Một tiếng kêu phát ra từ một cõi lòng đau khổ
Lời cầu khẩn của người phụ
nữ Canaan khá khác lạ: bà nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, thậm chí bà còn kêu
Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, danh hiệu vốn chỉ những người Do thái mới biết: “Lạy Ngài là con vua Đavít” (Mt 15: 22).
Người ta không biết chắc bà học được điều này ở đâu, có lẽ bà nghe được nhiều
người đồn thổi khi bà cố tìm cách chữa bệnh cho con gái của bà khi bà nhận ra rằng
các thầy thuốc và ngay cả các vị thần thánh của xứ sở của bà không thể giúp ích
gì cho con gái bà! Chỉ còn cách cầu cứu Vị Thầy Do thái Giêsu mà khắp nơi người
ta đang bàn tán rất nhiều: “Khi qua biển
rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghennêxarét. Dân địa phương nhận ra Chúa Giêsu,
liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với
Ngài. Họ nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào tua áo của Ngài thôi, và ai đã sờ vào
thì đều được khỏi” (Mt 14: 34-36). Có thể bà đã hỏi han nhiều người, tìm hiểu
về Chúa Giêsu và bắt đầu tin tưởng vào Ngài. Bà đợi có dịp gặp được Ngài. Nay dịp
tốt đã đến, bà liền vội vã đi gặp Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu kề: “Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tia và Siđôn,
thì này có một người đàn bà Canaan ,ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy
Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mt 15: 21-22). Bà không đợi
Chúa Giêsu lên tiếng nhưng mau chóng đưa ra lý do, và cũng là một lời cầu khẩn:
“Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
(Mt 15: 22). Một lời cầu xin cho con gái khổ sở của bà và cũng là cho tình cảnh
đáng thương của chính bà, đầy lòng tin tưởng vào quyền năng của Vị Thầy Giêsu,
dù không cùng dân tộc với bà. Có sao đâu, miễn là con gái tôi được cứu, và cả
tôi nữa! Chúng ta nhớ lại câu kêu cứu của Phêrô tuần trước: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14:
30). Có sao đâu, đây là Vị Thầy có thể cứu tôi thì sao tôi lại không kêu cầu Ngài
cơ chứ? Điều này trái ngược với sự không tin của người Do Thái đối với Chúa
Giêsu: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ
Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”
(Mt 15: 8-9). Bà bày tỏ nhu cầu của mình bằng những từ rõ ràng, đơn giản trong
đời thường của một người mẹ thương con, xuất phát từ một tấm lòng tin tưởng và
với tất cả sự khiêm nhường. Vậy mà… “Ngài
không đáp lại một lời” (Mt 15: 23), lại nói tránh đi, không nói thẳng với
bà, mà với các môn đệ của mình: “Thầy chỉ
được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (Mt 15: 24). Hẳn
bà nghe thấy và hiểu ra rằng ngay cả là con chiên lạc của nhà Israel bà cũng
không phải, không xứng đáng được nói chuyện với Vị Thầy Israel này, nói chi đến
chuyện được quan tâm và cứu chữa. Thánh Mátthêu kể tiếp: “Bà ấy đến bái lạy Ngài” (Mt 15:25); rõ ràng bà không nản lòng trước
những trở ngại, nhưng kiên trì và sẵn sàng làm mọi thứ, kể cả quỳ xuống phủ phục
bái lạy Đấng mà mình tin chắc có thể cứu giúp mình. Chính vì thế, một lần nữa,
bà lại kêu lên: “Lạy Ngài, xin cứu giúp
tôi! Xin dủ lòng thương tôi!” (Mt 15: 22).
Đây là lần thứ hai bà khẩn
cầu Chúa Giêsu, nhưng lại là lần thứ hai Chúa Giêsu khước từ; Ngài so sánh có vẻ
nặng nề hơn: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt
15: 26). Kinh Thánh cho biết chó có thói quen ăn những vật dơ bẩn. Chó ăn xác
chết (I V 21:23-24), liếm máu người (II Vua 22:38), liếm lại thứ nó đã mửa ra
(Cn 26:11), liếm ghẻ chốc (Lc 16:21). Vì chó ăn những vật dơ bẩn, cho nên các
dân tộc sống ở vùng Cận Động đã dùng chữ “chó” để mô tả khái niệm bẩn thỉu như liếm
ghẻ chốc, hung bạo như liếm máu người, dại dột vì liếm lại đồ đã mửa ra, và man
rợ vì ăn xác chết. Câu nói của Chúa dường như có vẻ tàn nhẫn, lạnh lùng, và
mang tính miệt thị. Hẳn người phụ nữ Canaan hiểu Vị Thầy Do thái Giêsu có ý nói
rằng bánh phúc lành mà Thiên Chúa dành cho người Do Thái, con cái của Ngài,
không thể quăng ném phung phí cho dân ngoại như quăng ném cho chó con. Bà không
thể mong đợi nhận được những điều chỉ dành cho những đứa con trong gia đình, vì
bà không phải là một thành viên trong gia đình của Thiên Chúa.
3. Sứ mệnh của Chúa Giêsu hướng đến những con chiên lạc nhà
Israel.
Người ta nhớ đến câu Chúa
nói trước kia: “Của thánh, đừng quăng cho
chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại
cắn xé anh em” (Mt 7: 6). Chúa Giêsu đến để đem Tin Mừng của Ngài cho toàn
thế giới, nhưng chính Ngài chỉ ngỏ lời với người Do Thái, dân tuyển chọn của
Thiên Chúa. Chỉ sau này Ngài mới giao nhiệm vụ cho các Tông Đồ của Ngài đi rao
giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Chính Thánh Phaolô, trong các cuộc hành trình
truyền giáo, cũng đã chủ trương rao giảng cho người Do Thái trước tiên: “Bấy giờ ông Phaolô và ông Banaba mạnh dạn
lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời
Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng
sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Thánh
Phaolô cũng nói rõ trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là
Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi
làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật
vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì
việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?...
Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Ngài không hề đổi ý” (Rm
11:13-15, 29).
4. Thành khẩn trông chờ sự thương xót và lòng nhân từ của
Chúa
Dẫu sao, một người bình
thường sẽ rất khó chịu khi bị người ta gọi mình là chó. Một người kính trọng
Chúa Giêsu như bà, và cả chúng ta, sẽ kinh ngạc và thắc mắc tại sao Chúa lại
dùng những lời lẽ như vậy. Tuy nhiên, người phụ nữ Canaan này đã không cảm thấy
bị xúc phạm trước câu nói của Chúa. Bà không quan tâm đến từ ngữ mang tính miệt
thị mà người Do Thái thường dùng - và Chúa đã cố tình sử dụng để thử đức tin và
thái độ của bà. Bà cũng không dám thay đổi chương trình và ý định của Thiên
Chúa ban phúc lành cho người Do Thái. Bà công nhận những gì Chúa Giêsu nói là
đúng và đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa
Ngài, đúng thế” (Mt 15:27). Bà vui lòng chấp nhận mình là lũ chó con, một
cách hết mực khiêm cung, thành khẩn trông chờ sự thương xót và lòng nhân từ của
Chúa: “nhưng mà lũ chó con cũng được ăn
những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Trước tấm lòng thành khẩn,
khiêm cung, cùng với đức tin của người phụ nữ Canaan, Chúa
Giêsu đã chữa lành cho con gái của bà. Chúa Giêsu khen người phụ nữ này: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn
sao thì sẽ được vậy” (Mt 15: 28). Và tác giả Mátthêu viết tiếp: “Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt15:28).
Chúa Giêsu đã đuổi quỷ ám ra khỏi con gái của người phụ nữ dân ngoại này, và
ban bánh dành cho con cái của Thiên Chúa cho gia đình ngoại đạo này.
5. Đặt cuộc đời bị tổn thương của mình dưới chân Chúa Giêsu
Tôi có bao giờ kêu cầu
Chúa Giêsu “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi
xuống, những mảnh vụn ân sủng từ Chúa. Thế là đủ cho con rồi” với tất cả lòng
khiêm hạ, kiên trì và cậy tin như người phụ nữ dân ngoại chưa?
Chúng ta cũng cần phải có
những phẩm chất đức tin, cậy trông, kiên trì và khiêm hạ như thế khi trò chuyện với Chúa Giêsu. Cuộc trò chuyện của
chính chúng ta với Chúa Kitô cần phải có tâm tình của người phụ nữ Canaan, như Đức
Thánh Cha Phanxicô trong bài chia sẻ Tin mừng tại buổi đọc kinh Truyền tin ngày
16 tháng 8 năm 2020: “Mỗi người chúng ta
đều có câu chuyện của riêng mình, một câu chuyện thường khó khăn, đầy đau đớn,
bất hạnh và tội lỗi. Tôi phải làm gì với câu chuyện của mình. Tôi có giấu nó
không? Không. Thay vào đó, chúng ta phải mang nó đến với Chúa. Hãy suy nghĩ về
câu chuyện cuộc đời của chính mình và biến lời cầu nguyện của người phụ nữ
Canaan thành của chính mình. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, gõ cửa trái tim
Chúa Giêsu và nói với Ngài: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể chữa lành con.”
Chúng ta sẽ có thể làm được điều này, nếu chúng ta luôn giữ khuôn mặt của Chúa
Giêsu trước mặt chúng ta. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, con người thật của
chúng ta, không giả tạo, với một tình yêu và lòng trắc ẩn gánh chịu tội lỗi, lỗi
lầm và thất bại của chúng ta. Chúa Giêsu là Đấng yêu thương chúng ta, yêu
thương chúng ta rất nhiều, vô cùng mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc.” [1]
Lời cầu nguyện kiên trì của chúng ta không nhất thiết
làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng nó sẽ thay đổi chúng ta. Tất cả những điều
này đều có thể thực hiện được nếu chúng ta để Chúa kiểm soát và để ý muốn, kế
hoạch của Ngài thành hiện thực trong cuộc sống của chúng ta.
Phêrô Phạm Văn Trung.
[1]
https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2020-08/pope-angelus-faith-canaanite-woman-healing.html
.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|