NIỀM VUI TRONG TÌNH XÓT THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
Hôm nay, giữa Mùa
Chay, Giáo hội cử hành Chúa nhật Laetare, được lấy từ lời đầu tiên của bài
thánh ca nhập lễ hôm nay: “Laetare,
Ierusalem
- Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người
yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã
than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả
thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ” (Is 66:10-11)
1. Niềm vui giải thoát
Đó là những gì
Thiên Chúa đã truyền cho tiên tri Isaia công bố cho những người Do Thái
đang bị giam cầm ở Babylon, nơi mà họ thường ngồi bên bờ suối và khóc lóc.
Họ treo đàn hạc lên
cây vì buồn quá không hát nổi
và nhớ lại tất cả những tội lỗi của mình. Bài đọc thứ nhất
từ Sách Biên Niên thứ hai mô tả những tội lỗi đó: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất
trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Chúa đã
được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa,
khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài” (2 Sb 36: 14, 16). Nhưng
Chúa không ngừng yêu thương họ. Vì tình yêu, Ngài đã làm cho việc lưu đày ở
Babylon thành cơ hội để dẫn đưa họ hoán cải về với Ngài, một sự giải thoát mà chính
Thiên Chúa đã khiến Kyrô, vua Ba Tư, thực hiện.
Việc giải phóng
người Do Thái khỏi Babylon, như lời tiên tri Isaia loan báo chỉ là một dấu hiệu
báo trước một sự giải thoát và một niềm vui lớn lao hơn nhiều mà Chúa Giêsu sắp
mang đến cho nhân loại, một sự giải phóng khỏi sự lưu đày và xa cách Thiên Chúa
do tội lỗi gây ra, thoát khỏi sự giam cầm của tội lỗi vốn sẽ dẫn đến cái chết.
Đó là một thông điệp vui mừng không chỉ dành cho thành Giêrusalem, mà dành cho tất
cả mọi thành phố. Niềm vui đó òa vỡ vì tình yêu khôn dò của Thiên Chúa không ngừng
nghỉ tìm cách cứu chuộc chúng ta. Giáo Hội khuyến khích chúng ta suy ngẫm về
tình yêu đó trong Tin Mừng hôm nay, khi Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”
(Ga 3:16). Thánh Gioan nói thêm: “Thiên
Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian,” để trừng
phạt chúng ta một cách nghiêm khắc vì tội lỗi của chúng ta, “nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà
được cứu độ” (Ga 3:17). Dù loài người ở trong tình trạng tồi tệ hơn nhiều
so với người Do Thái ở Babylon, nhưng chính Chúa đã phái một người vĩ đại hơn Kyrô,
Vua Ba Tư, đến giải phóng chúng ta. Người đó là Con của Ngài. Thánh Phaolô đã
viết cho giáo đoàn Rôma rằng: “Đến như
chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng
ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả
cho chúng ta?” (Rm 8:32). Điều đó khiến Thánh Phaolô kết luận: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo?” (Rm 8:35). Khi Thiên Chúa Cha quyết định không để cho chúng ta phải
chết trong cảnh lưu đày vĩnh viễn nhưng sai Con của Ngài đến chịu chế nhạo, chịu
đóng đinh một cách dã man, và chịu chết đau thương thay chúng ta, thì một cách
nào đó theo cách nhìn của người phàm chúng ta, Ngài đã dành cho chúng ta một
tình yêu thương còn lớn lao hơn cả tình yêu dành cho Con Ngài. Ngài đã chọn cứu
mạng sống chúng ta bằng cách để Con Ngài thành của lễ hiến tế. Tình yêu không
thể diễn tả này là lý do đáng kinh ngạc cho niềm vui! Tình yêu của Thiên Chúa sẽ
vượt qua mọi giới hạn để cứu chúng ta, và đó là cội nguồn của mọi niềm vui Kitô
giáo.
2. Chúa Kitô như
con rắn đồng Môsê giương cao trong sa mạc
Để bước vào niềm
vui trong tình xót thương của Chúa Kitô, con người cần hiểu được cái giá của niềm
vui đó và sự đáp trả mà niềm vui đó đòi hỏi. Hôm nay Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết
cái giá của niềm vui đó: “Như ông Môsê đã
giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
(Ga 3:14). Con rắn ngày xưa đã khiến Adam và Eva trong Vườn Địa đàng không tin
vào Thiên Chúa, và chọn sống xa cách Thiên Chúa thay vì sống trong tình yêu thân
thiết với Ngài, nghĩa là chọn cái chết thay vì sự sống. Lịch sử dân Israel cho
thấy họ vẫn thường mất lòng tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài vừa cứu họ khỏi
tay Pharaô. Họ muốn thờ một vị thần khác: “Dân
này có khuynh hướng xấu. Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần
để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông
Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai cập” (Xh 32:23-24). Họ
trách cứ Thiên Chúa bắt họ phải lang thang trong sa mạc: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong
sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy
thứ đồ ăn vô vị này” (Ds 21:5). Thiên Chúa đã cho phép rắn trườn vào giữa họ
và cắn họ: “Bấy giờ Chúa cho rắn độc đến
hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết” (Ds 21:6). Thuốc
giải độc mà Thiên Chúa kê đơn để cứu họ là yêu cầu Môsê làm một con rắn đồng và
treo lên một cây gậy, và những ai nhìn vào con rắn đó sẽ được cứu. Con rắn đồng
như một lời nhắc nhở về tội lỗi khiến họ nhiễm độc chết người cả thể xác lẫn linh
hồn. Chúa Giêsu nói rằng trên Thập Giá Ngài sẽ trở nên giống con rắn đồng được treo
lên cao đó: “Như ông Môsê đã giương cao
con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin
vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:14). Ngài sẽ hút chất độc của tội lỗi
ra khỏi vết thương của chúng ta và mang nó lên Thập tự giá của Ngài.
Chúng ta cần phải ngắm nhìn Chúa Giêsu trên Thập tự
giá để biết tội lỗi
nghiêm trọng của chúng ta đã gây ra điều gì. Chúng ta không thể tự cứu mình khỏi
tội lỗi bằng nỗ lực của chính mình, nhưng chính tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa,
qua Chúa Giêsu, Đấng đã gánh lấy tội lỗi con người và chịu chết, sẽ đem lại cho
chúng ta liều thuốc giải độc cứu rỗi. Để được cứu độ, chúng ta cần ngắm nhìn
Chúa Giêsu bằng con mắt đức tin, một đức tin thấm nhuần trong lối sống hàng
ngày. Đó là điều Thánh Gioan bày tỏ ngay sau những lời giải thích về chiều sâu
tình yêu của Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì
bị lên án rồi” (Ga 3:18). Ngài mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta rằng giống như những
người ở Giêrusalem trước thời lưu đày đã từ chối lắng nghe các ngôn sứ, thì
chúng ta hôm nay cũng có thể không lắng nghe Chúa Giêsu: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng
bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thánh Gioan
giải thích bản án đó: “Quả thật, ai làm
điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi
bị chê trách” (Ga 3: 20). Ngắm nhìn
Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá bằng con mắt đức tin có nghĩa là đi vào sự thật
của Thập Giá. Điều đó có nghĩa là cùng Chúa Giêsu bước vào ánh sáng, bỏ lại
bóng tối tội lỗi phía sau, sống một đời sống công chính trước mặt mọi người, thực
hiện mọi sự trong Thiên Chúa: “Nhưng kẻ sống
theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy
đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3: 21).
3. Sự cao vời của
lòng Chúa xót thương
Nhìn vào Thập Giá
bằng ánh sáng đức tin có nghĩa là nhận ra nơi Thập Giá tình yêu thương xót vô
giá của Thiên Chúa. Sự cứu rỗi của chúng ta đã được mua bằng cái chết của chính
Chúa Giêsu. Chúng ta không xứng đáng được Ngài chết thay cho, nhưng vì xót
thương chúng ta nên Ngài đã chết vì chúng ta. Thánh Phaolô tập trung vào điều
này trong bài đọc thứ hai hôm nay. “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết
vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Chúa Kitô. Chính do ân
sủng mà anh em được cứu độ! Ngài đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự
trị với Chúa Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6).
Trong buổi suy niệm
Kinh Truyền Tin ngày 15 tháng Ba năm 2015 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã giải nghĩa tình thương xót của Thiên Chúa được nhìn thấy
trên Thập giá. “Đừng bao giờ quên điều
này, Thiên Chúa giàu lòng thương xót.… Thập Giá Chúa Kitô là bằng chứng cao cả
nhất về Tình Yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta: Chúa Giêsu đã yêu thương chúng
ta cho đến cùng (Ga 13:1), nghĩa là không chỉ vào giây phút cuối cùng của cuộc
đời trần thế, nhưng cho đến giới hạn tột cùng của tình yêu. Nếu trong công cuộc
tạo dựng, Chúa Cha đã ban cho chúng ta bằng chứng về tình yêu cao cả của Ngài bằng
cách ban cho chúng ta sự sống, thì trong cuộc khổ nạn của Người Con, Ngài đã
ban cho chúng ta tất cả mọi bằng chứng: Ngài đã đến để chịu đau khổ và chết cho
chúng ta. Và tình yêu quá lớn lao này chính là lòng thương xót của Thiên Chúa,
vì Ngài yêu thương chúng ta, Ngài tha thứ cho chúng ta. Với lòng thương xót của
mình, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả và Thiên Chúa luôn tha thứ.”
Toàn bộ mục đích
của Mùa Chay là đưa chúng ta đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô trên Thập Giá, để
Thiên Chúa giàu lòng xót thương làm cho chúng ta giàu lòng thương xót, giúp
chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần đón nhận lòng thương xót đó đến mức nào và
sau đó chia sẻ lòng thương xót đó một cách hào phóng với người khác. Thực hiện
điều này là cần thiết để chúng ta bước vào niềm vui mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta. Niềm vui tột
cùng của chúng ta là tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và vì
tình yêu của Thiên Chúa là lòng thương xót của Ngài, do đó chúng ta chỉ có thể
cảm nghiệm được niềm vui trọn vẹn của Chúa Kitô khi chúng ta đón nhận và chia sẻ
lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Đời sống của chúng ta là để thực
hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta: “tin vào Con Thiên Chúa để khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Chúng ta cần phải bước qua cánh cửa của
lòng thương xót và đưa nhiều người khác qua cùng cánh cửa đó, như Thánh Phaolô
căn dặn: “Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu của
Ngài đối với chúng ta trong Chúa Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau
được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Ngài. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ
lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ
của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.
Thật thế, chúng ta là tác
phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Chúa Kitô Giêsu, để sống mà
thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”
(Ep 2:7-10).
Phêrô Phạm Văn Trung.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|