Phần lớn sách Tin mừng của thánh Mátthêu được viết
là để trả lời cho ba khía cạnh sau: Chúa Giêsu là ai? Trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu theo căn tính của Ngài nghĩa là gì? Người ta sẽ phải đưa ra những lựa chọn
nào trước lời mời gọi của Chúa Giêsu?
1. Đi tìm
căn tính của Chúa Giêsu.
Trong các bài Tin mừng hai Chúa nhật trước,
chúng ta đã thấy những khía cạnh này được đặt ra trong khung cảnh Phêrô đi trên
mặt nước (Mt 14:22-33) và cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Canaan (15:21-28) - và cả
hai trình thuật đều cho thấy Chúa Giêsu đưa ra nhận xét về đức tin của người
môn đệ: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại
hoài nghi?” (Mt 14: 31), và: “Này bà,
lòng tin của bà mạnh thật” (Mt 15; 28). Những câu chuyện này là bối cảnh trực
tiếp cho đoạn Tin mừng của chúng ta hôm nay. Phêrô tuyên xưng niềm tin của mình
vào Thầy Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16).
Lời tuyên xưng của Phêrô về Chúa Giêsu là Đấng Kitô
làm nên đỉnh cao của cả một trình thuật dài trong sách Tin Mừng của Mátthêu, từ
khi Chúa Giêsu giảng dạy công khai ở Galilê: “Từ bấy giờ Chúa Gêsu bắt đầu rao giảng” (4:17). Trong cuộc hành
trình, những câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu dần dần được đặt ra. Ngay từ đầu
Máttthêu đã cho thấy rõ căn tính của Chúa Giêsu - là Con Thiên Chúa được Thần
Khí đưa đến: “Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa
xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên
Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài. Và có tiếng từ trời phán:
"Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (3: 17). Căn tính này
còn được xác nhận bởi chính quỷ dữ: “Có
hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Ngài; chúng rất dữ tợn, đến nỗi
không ai dám qua lại lối ấy. Chúng la lên rằng: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện
chúng tôi can gì đến ông?” (8:29). Nhưng không có ghi chép nào cho thấy Chúa
Giêsu tuyên bố rõ ràng về vai trò của Ngài là Đấng Mêsia, mặc dù phần lớn việc
giảng dạy của Ngài rõ ràng là theo hướng đó. Chúng ta chỉ có lời khai của những
người chứng kiến và kinh ngạc về uy quyền của Ngài trong lời nói và việc làm:
· “Khi Chúa Giêsu giảng dạy những điều ấy xong,
dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Ngài giảng dạy như một Đấng
có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (4: 24-25; 7:28–29).
· “Người bại
liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã
ban cho loài người được quyền năng như thế” (9:8, 26)
· “Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói
được. Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: "Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ!”
(9: 33).
· “Ngài về
quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói:
"Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?” (13:54).
· “Đám đông
phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi
được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel” (15:31).
Những sự kinh ngạc, sửng sốt, sợ hãi này đã dẫn
đến suy đoán Ngài là con vua Đavít: “Tất
cả dân chúng đều sửng sốt và nói: "Ông này chẳng phải là Con vua Đavít sao?”
(12: 23). Tước hiệu này cũng do hai người mù kêu cầu và đặt cho Ngài: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”
(9: 27) và do người đàn bà Canaan kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (15: 22). Điều
này chắc chắn cũng đã khiến những người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc, vốn
được coi là tầng lớp cai trị dân, nhiều lần yêu cầu Chúa Giêsu làm một dấu lạ để
chứng minh những lời rao giảng của Ngài là từ trời cao: “Bấy giờ, có những người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc lại gần Chúa
Giêsu, và để thử Ngài, thì xin Ngài cho thấy một dấu lạ từ trời” (16:1).
Căn tính của Chúa Giêsu là Đấng Mêsia được Gioan
Tẩy giả ám chỉ khi ông nói với nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến
sông Giođan chịu phép rửa nơi ông “Tôi,
tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng
đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ
làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (3:11). Chúa Giêsu cũng
ám chỉ như vậy khi trả lời Gioan Tẩy giả đang ở trong tù: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi” (11:2-6).
2. Sứ vụ
của Chúa Giêsu.
Người ta muốn biết chắc về Chúa Giêsu là ai trước
khi họ cam kết trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ngay cả sau tất cả những gì
Chúa Giêsu đã nói và làm, người ta luôn luôn yêu cầu một dấu hiệu khác nữa: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.
Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna” và câu
trả lời là không có dấu lạ nào khác: “Rồi
Ngài bỏ họ mà đi” (16: 4). Thời gian thực hiện các dấu lạ đã hết. Đã đến
lúc vấn đề phải được làm sáng tỏ, nhưng trước tiên phải được làm sáng tỏ một
cách riêng tư cho các môn đệ đã: “Sáu
ngày sau, Chúa Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi
theo mình. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài
biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và
y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng” (17:1-2). Nhưng Chúa Giêsu
truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai
hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (17: 9). Hôm
nay chúng ta lại nghe một lệnh truyền tương tự: “Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô”
(16: 20). Chúa Giêsu biết rất rõ rằng căn tính của Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa, không dễ được người ta chấp nhận nếu không có ơn ban của Chúa Thánh Thần
thúc đẩy từ bên trong, như thánh Phaolô xác định sau này: “Không ai có thể nói rằng: Chúa Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở
trong Thần Khí” (1Cr 12:3).
Do đó, vào thời của Chúa Giêsu, cũng như thời của
chúng ta ngày nay, nhiều người không biết chắc Chúa Giêsu là ai, và luôn hiểu
sai về Ngài. “Ngài hỏi các môn đệ rằng:
"Người ta nói Con Người là ai? " Các ông thưa: "Kẻ thì nói là
ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay
một trong các vị ngôn sứ” (16:13-14) Chỉ Phêrô mới nói đúng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”
(16:16). Chúa Giêsu xác nhận: “Này anh
Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải
cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo
cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh
chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc
như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”
(16: 17-19).
Việc Chúa Giêsu chọn Phêrô làm Tảng đá để xây Hội
Thánh là dựa trên việc tuyên xưng nền tảng này. Nhưng trong thực tế đó lại là một
điều gây ngạc nhiên. Vì khi Phêrô cố gắng đi trên mặt biển, đức tin của ông
không đủ mạnh (14:28-31) và khi bị thử thách trong đêm Chúa Giêsu bị bắt, ông
đã chối Chúa ba lần. Tuy nhiên theo trình thuật của Luca thì trong Bữa Tiệc Ly,
Chúa Giêsu nói rằng sau khi Phêrô lấy lại đức tin, ông phải củng cố các tông đồ
anh em mình: “Thầy đã cầu nguyện cho anh
để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của
anh nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Đó là vai trò của Vị Đại Diện Chúa Kitô: củng
cố đức tin của Giáo hội. Chúa Giêsu ba lần hỏi Phêrô rằng ông có yêu Ngài không
và khi Phêrô trả lời rằng có thì Chúa Giêsu yêu cầu ông chăm sóc đàn chiên của
mình: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga
21:15-17). Trong bài đọc thứ hai hôm nay, thánh Phaolô nói rõ: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của
Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai dò cho thấu! Đường lối của
Ngài, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn
cho Ngài?” (Rm 11:33-34).
Không chỉ thời các Tông đồ, mà cả thời nay, con
người dễ đánh mất ý thức về điều đúng và điều sai, vì chúng ta luôn trôi xa khỏi
Thiên Chúa giữa bao tin đồn của những người chung quanh. Điều này lại càng đúng
trong thế giới ngày nay với những hệ thống truyền thông đủ mọi khuynh hướng, vốn
bị những ý thức hệ duy vật và quyền lực chính trị thao túng, xa rời Thiên Chúa,
nguồn sự thật duy nhất. Người ta nghĩ rằng mình có thể làm những gì mình muốn,
mình thích, lấy mình làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động. Khi
Chúa Giêsu bị xét xử trước Philatô, Ngài nói rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Philatô hỏi:
“Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Câu trả
lời của Philatô bộc lộ rõ tình trạng vô minh cố hữu của con người mọi thời mọi
nơi.
Như Phêrô đã nhận được mặc khải từ Cha trên trời
và biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, là Chúa Kitô, thì đức tin của chúng ta vào
Chúa Giêsu Kitô không phải là vấn đề ý kiến cá nhân, không phải là vấn đề người
ta nói này nói nọ về Ngài, mà là tin vào điều Thiên
Chúa đã mạc khải qua thánh Phêrô và các Đấng kế vị Ngài. Để hướng dẫn Giáo
hội, dân mới của Thiên Chúa, đi theo con đường Sự thật của Ngài, Chúa Giêsu chọn
cho Giáo hội một vị lãnh đạo để củng cố đức tin và nuôi dưỡng tinh thần đàn
chiên của Ngài. Chúng ta tin rằng Vị Đại Diện Chúa Giêsu, Đức Giáo Hoàng, có đặc
sủng của sự thật, mà chúng thường gọi là ơn bất khả ngộ - không thể sai lầm - để
giúp ngài không sai lầm khi giảng dạy về đức tin và luân lý. Chúng ta cần cả
Kinh Thánh và cả giáo huấn của Giáo hội để hướng dẫn chúng ta trên hành trình
cuộc sống. Đức Thánh Cha dạy sự thật rõ ràng về mọi vấn đề và giúp chúng ta
không lạc xa sự thật đã được Thiên Chúa mặc khải qua Chúa Giêsu Kitô. Nếu không
có mặc khải của Thiên Chúa, hoặc nếu chúng ta không tin vào mặc khải của Thiên
Chúa, thì chúng ta sẽ như chiên lạc lang thang khắp nơi, không biết nẻo chính
đường ngay, cứ mơ hồ như nhiều người thời Chúa Giêsu, và cả như nhiều người thời
nay nữa. Nhưng với đức tin, chúng ta nói về Chúa Giêsu, như Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”
(Mt16:16).
Phêrô Phạm Văn Trung.