YÊU THƯƠNG LÀ LUẬT CAO TRỌNG NHẤT
Trong Luật Do Thái, còn gọi là luật Môsê, có 613 giới luật, gồm 365 luật
cấm làm và 248 luật buộc làm. Chính vì thế những người Do thái vốn quan tâm đến
việc tuân giữ lề luật Môsê thường hỏi điều luật nào được ưu tiên hơn những điều
luật khác. Thực ra, ngay trong thời Cựu ước, dân Thiên Chúa đã biết rằng phải:
“yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết
lòng hết dạ, hết sức anh em.” Đây là điều luật mà họ gọi là Kinh Shema, là
bản tóm tắt Lề Luật Môsê và là lời tuyên xưng đức tin của Do Thái giáo vào một
Thiên Chúa Duy Nhất. Lời tuyên xưng đó được cụ thể hóa trong đời sống tôn giáo.
Người giữ luật Môsê cặn kẽ đọc câu Kinh Shema này nhiều lần mỗi ngày, nhất là
những người Pharisêu còn đeo trước trán của họ một chiếc hộp nhỏ đựng lời kinh
này như dấu chỉ cho thấy họ đang tuân giữ lề luật cách chu đáo. Tuy nhiên, vì
có quá nhiều điều khoản chi tiết hóa Luật Môsê nên người ta không còn biết được
điều răn nào là quan trọng nhất, là trung tâm cho mọi điều răn khác. Hẳn các luật
sĩ, vốn hiểu rất cặn kẽ về những điều luật này, cũng không đồng ý với nhau về
điều luật nào đáng được coi là quan trọng nhất. Chẳng ai có thể đi đến một kết
luận đồng nhất và đồng thuận.
Nhân cơ hội nhóm Sa đốc bị Chúa Giêsu làm bẽ mặt về việc kẻ chết sống lại,
là chuyện họ không tin, thì “Những người
Pharisêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Chúa Giêsu để thử
Ngài rằng: "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng
nhất?” (Mt 22: 35). Câu hỏi này được Chúa Giêsu trả lời trọn vẹn: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…Còn điều răn thứ hai, cũng
giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt
22: 37,39). Chúa Giêsu gắn kết hai giới răn từ sách Đệ nhị luật: “Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết
lòng hết dạ, hết sức anh em” (6:5) và sách Lêvi: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân
ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (19:18). Người Do thái coi
hai điều răn này như thể tách rời nhau; họ đặt điều răn thứ nhất vào việc thờ
phượng Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chỉ là các nghi lễ tế tự và rất nhiều quy định
chi tiết phải tuân giữ bên ngoài, đến độ chỉ còn là hình thức mà quên đi tinh thần
cốt lõi trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu lấy lời tiên tri Isaia: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng, tôn vinh
Ta bằng môi, còn lòng chúng thì xa Ta lắm; chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh của
người phàm, nhưng đó chỉ là sáo ngữ” (Is 29: 13) để nói với họ: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật
đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15: 7-8). Đối với Chúa Giêsu, hai điều
răn đó gắn kết mật thiết với nhau đến nỗi yêu mến Thiên Chúa mà không yêu
thương người khác thì chưa giữ trọn Luật Chúa, và ngược lại. Chúa Giêsu dạy về
việc dâng lễ: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật
trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì
hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở
lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây rằng
việc làm hòa với người anh em phải ưu tiên hơn việc dâng lễ vật trên bàn thờ.
Chúa Giêsu kết hợp tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận thành một,
trong đó điều răn yêu mến Thiên Chúa là nền tảng được cụ thể hóa trong điều răn
yêu mến người lân cận. Như vậy, tất cả các quy định của Lề Luật, đều được đặt
trong mối liên hệ với điều răn duy nhất này: yêu thương. Toàn bộ Lề Luật tìm thấy
ý nghĩa và nền tảng của chúng trong điều răn yêu thương. Chúa Giêsu đơn giản
hóa tất cả các giới luật: bất cứ ai thực hành tình yêu thương thì không chỉ
tuân theo luật pháp mà cả các tiên tri nữa: “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”
(Mt 22: 40). Tính mới mẻ của câu trả lời nằm ở việc thực hiện mọi sự trong cuộc
sống hướng về Thiên Chúa và tha nhân trong tình yêu thương. Chúa Giêsu cho thấy
khi con người yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân thì cuộc sống của họ mới
có nền tảng vững chắc. Điều đó có nghĩa là, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương
người lân cận giúp con người luôn sống trong sự hiệp thông gắn kết với Thiên
Chúa và với người khác.
Yêu người anh em lân cận như chính mình là thể hiện một cách cụ thể tình
yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Chỉ khi như thế thì mọi điều khác, như việc
đạo đức của chúng ta, thánh lễ hàng ngày, đọc sách thánh và lần chuỗi Mân Côi, mới
có ý nghĩa hiệp thông đích thực với Thiên Chúa và mọi người.
Cả hai điều răn đều đầy thách thức. Tuy nhiên, trong thực tế, việc yêu
thương người lân cận như yêu chính mình có thể khó khăn hơn điều răn thứ nhất!
Điều răn thứ hai này thường khiến chúng ta cảm thấy khó chịu. Chúng ta không phải
lúc nào cũng thích người hàng xóm của mình. Hàng xóm của chúng ta có thể là một
cá nhân đã làm tổn thương chúng ta, xúc phạm chúng ta hoặc phớt lờ chúng ta. Và
cảm xúc mà chúng ta cảm thấy đối với người này rất có thể không phải là yêu
thương.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta yêu thương mỗi người chúng ta gặp:
những người chúng ta yêu mến cũng như những người chúng ta muốn tránh xa; phải gắng
yêu thương từng người chúng ta gặp gỡ, một cách có ý thức, bất kể chúng ta cảm
thấy thế nào về họ. Chúng ta được mời gọi thực hiện hành động cụ thể này: yêu mến
không chỉ Thiên Chúa bằng cách phó thác mọi sự trong cuộc sống chúng ta cho
Ngài mà còn bằng cách yêu thương người khác, kể cả những người kém cỏi nhất và
những người bị hư mất. Đây là biểu hiện rõ nét lòng mến của chúng ta đối với Thiên
Chúa, như Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói:
"Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ
Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4:
20-21).
Điều chúng ta phải làm là quy hướng toàn bộ con người chúng ta về Thiên
Chúa, mở lòng mình ra cho Chúa và quên đi chính mình để phục vụ Thiên Chúa
trong tha nhân. Chúng ta phải gạt bỏ những khao khát một cuộc sống thoải mái chỉ
cho riêng mình, những chuyện danh giá hão huyền phù phiếm và kiêu hãnh của
mình.
Nhiều người lao nhọc kiếm sống với ảo tưởng rằng họ sẽ hạnh phúc nhiều
hơn khi sở hữu đầy đủ mọi thứ, khi đạt được sự nổi tiếng hoặc được ngưỡng mộ hơn.
Họ quên rằng tất cả những gì họ cần là có trái tim yêu thương. Không có thứ “hạnh
phúc” nào ở trần gian có thể lấp đầy trái tim chúng ta như tình yêu của Thiên
Chúa. Trái tim của chúng ta được dựng nên là vì mục đích ấy. Mọi sự trong cuộc
đời của chúng ta sẽ đạt được ý nghĩa cao quý thực sự của chúng khi chúng ta dành
cho Thiên Chúa một tình yêu trên hết mọi sự.
Còn tình yêu đối với người lân cận, phải chăng chỉ là một tình cảm mơ hồ,
một cảm xúc, một hành động thoáng qua hay một thực tại khẳng định toàn bộ con
người chúng ta: trái tim, ý chí, trí hiểu và các mối tương quan giữa con người
với nhau?
Con người được dựng nên do tình yêu và để yêu thương. Chúng ta có nhận ra
rằng sự viên mãn của mình chỉ được thực hiện trong tình yêu của chúng ta dâng
lên Thiên Chúa, yêu Ngài bằng cả trái tim, hết linh hồn, hết trí khôn không? Một
tình yêu như thế đòi hỏi một sự thể hiện lòng bác ái đối với anh chị em và hoàn
cảnh sống cụ thể của họ. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa phán trong bài đọc
thứ nhất: “Mẹ goá con côi, các ngươi
không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó
kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ
các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút. Nếu ngươi cho một
người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được
xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của
người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó
chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu
Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ. Ngươi không được nói phạm đến Thiên Chúa,
không được nguyền rủa người đầu mục trong dân” (Xh 22: 21-27).
Chúng ta có bao giờ tự hỏi, Chúa Cha thực sự mong muốn điều gì ở chúng
ta không? Ở đây chúng ta có câu trả lời ngắn gọn của Ngài - yêu Chúa, yêu người
khác. Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng không dễ làm chút nào. Trước hết,
không thể yêu mến Đấng Tạo Hóa hoặc các thụ tạo một cách đúng đắn - như Thiên
Chúa muốn chúng ta yêu thương - nếu không có quyền năng của Chúa Thánh Thần ngự
trong chúng ta. Cũng không hề dễ dàng hơn khi phải yêu thương một cách đúng đắn
và hết lòng những người khác, nhất là khi họ lại là những kẻ xấu nết, những kẻ
bẩn tính, những kẻ đáng ghét, những kẻ hay ganh ghét, đố kỵ, chế nhạo, nhổ vào
mặt hoặc đóng đinh chúng ta vào mọi thứ thập giá…Đó mới là những người mà lẽ ra
chúng ta phải yêu thương, sẵn sàng, trọn vẹn, hết lòng? Chúa Giêsu có nói để
đùa chơi không? Không bao giờ. Ngài đã không sống và chết vì tất cả những người
như thế, trong đó có chúng ta, đó sao? Chúng ta cần sức mạnh siêu nhiên từ
Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Phục sinh, trong Thánh Thần của Ngài, như lời Thánh
Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Khi chúng
tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà
còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa… và chờ đợi Con của
Ngài từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là
Chúa Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 5, 10).
Phêrô Phạm Văn Trung.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|