Trần Mỹ Duyệt
Vợ chồng xưng hô với
nhau bằng Chồng ơi – Vợ
ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến
già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào.
Những từ ngữ trên là
cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành
cho nhau. Trong những cách vợ chồng gọi nhau, gọi nhau bằng “mình”, là cách gọi
thân thương nhất, nhẹ nhàng nhất, và thấm đậm tình cảm nhất.
Trong hôn nhân, vợ chồng
sống với nhau quan trọng là hai chữ “hòa thuận”. Người chồng trọng nhất là giữ
nghĩa với vợ, người vợ trọng nhất là giữ tiết với chồng. Cư xử với nhau theo
phương châm: “Phu phụ tương kính như tân”, nghĩa là vợ chồng quý nhau như
khách. Vì nếu “phu phụ hòa nhi hậu gia đạo thành”. Vợ chồng có hòa thuận thì
mới nên gia đạo.
Xét về phẩm chất của
người vợ, theo truyền thống văn hóa từ xưa, người vợ phải đảm bảo đủ “tam tòng,
tứ đức”. Tam tòng là người con gái ở nhà thì theo cha mẹ, lấy chồng thì theo
chồng, khi chồng chết thì theo con. Tứ đức là: Công, dung, ngôn, hạnh. Quan điểm
tam tòng có thể thay đổi để hòa nhập theo văn hóa và xã hội hiện nay, nhưng tứ
đức thì đời nào cũng đáng quý.
VỢ CHỒNG XƯNG HÔ VỚI
NHAU
Đối với văn hóa Âu Mỹ,
người Anh hay Mỹ vợ chồng gọi nhau bằng tên. Thí dụ, John, Peter, James,
Mary, Ann, Teresa… Trong cách xưng hô lãng mạn, họ gọi nhau là beau,
beloved, darling, dear, dearest, dearie, hoặc honey.
Người Pháp cũng gọi nhau
bằng tên: Jean, Jacques, pierre, Paul... Thân mật hơn họ gọi nhau mon hay
ma Chéri (e), mon (ma) petit (e), cheri (e), mon, amour.
Người Trung Hoa, chồng
gọi vợ là hiền thê, ái thê hay nương tử. Người vợ gọi chồng là tướng công, phu
quân hay lang quân.
Do ảnh hưởng văn hóa
Trung Hoa, theo Nho học, tại Việt Nam vợ được gọi là thê, phụ. Những gia đình
theo cổ tục đa thê trước đây, vợ chính, vợ cả, vợ lớn gọi là đích thê, chính
thê, phát thê, chính thất, hay chủ phụ. Vợ sau, vợ lẽ là kế thất. Trong cách thân
mật, chồng gọi vợ là hiền thê, ái thê, nương tử. Khi xưng hô với người khác,
chồng gọi vợ là phu nhân, và vợ gọi chồng là phu quân. [1]
GỌI NHAU HAI TIẾNG MÌNH
ƠI
Từ sự phong phú của ngôn
ngữ Việt, vợ chồng xưng hô với nhau bằng nhiều từ ngữ thân mật, dịu dàng mà
cũng rất lãng mạn tùy theo hoàn cảnh và thời gian. Trong thời gian hẹn hò, quen
biết, đôi trai gái thường gọi nhau bằng tên. Khi “tình trong như đã,” thì xưng
hô anh em với nhau. Và sau khi nàng đã theo chàng về dinh, trong đời sống hôn
nhân cả hai đã trở nên một, lúc đó vợ chồng gọi nhau, xưng hô với nhau là anh,
em, chồng, vợ. Dù chồng kém tuổi hơn vẫn gọi là anh. Những cặp đã có con
thì chữ anh hay em được thay bằng “bố’ hoặc “mẹ”, để gọi thay cho con. Thí dụ,
bố thằng Tý, mẹ con Mơ. Và khi về già họ gọi nhau là “ông” hoặc “bà”: Ông nó
đâu rồi? Bà đang làm gì vậy?...
Tuy nhiên, cách gọi thân
thiện nhất, tình tứ nhất và cũng lãng mạn nhất, đó là vợ chồng gọi nhau bằng
“mình”.
MÌNH ƠI TIẾNG RU NGỌT
NGÀO
“Mai này đây
người em thơ nhỏ bé.
Có anh vuốt vai gầy,
ngắm làn môi thắm thơ ngây.
Trọn đời chung đôi mãi
yêu như ngày cưới.
Hai đứa kêu nhau ‘Mình
ơi!’”[2]
Tự điển tiếng Việt định
nghĩa chữ “mình” như sau:
-Đại từ vợ chồng gọi
nhau thân mật.
-Đại từ ngôi thứ hai,
dùng thân mật: “Mình về mình nhớ ta chăng? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười” (Ca
dao). [3]
Bùi Giáng đã mặc cho chữ
mình ở đây bằng một tên gọi khác cũng có trong văn chương Việt Nam qua hai câu
thơ:
“Mình ơi! Tôi gọi là nhà,
Nhà ơi! Tôi gọi mình là nhà tôi”.
Như vậy, từ tiếng mình,
vợ chồng Việt Nam còn gọi nhau là “nhà tôi” khi nói về chồng hay vợ mình với
người khác. Chữ nhà tôi đây không phải để chỉ về một ngôi nhà, một nơi ở, một
tổ ấm của hai vợ chồng, mà còn để nói lên tính chất sở hữu, lệ thuộc và trách
nhiệm đối với nhau. Nhà tôi chỉ vợ hoặc chồng khác với cái nhà “house”, và cũng
khác với “home” là tổ ấm, chỗ ở, và quê hương, tuy cả hai trong tiếng Anh cũng
gọi là nhà. Chính vì thế mà nhiều người tuy có house, nhưng chưa có home. Có
nghĩa là tuy sống trong căn nhà nhưng không phải là tổ ấm gia đình: “Đàn
ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm!”.
Chữ mình của người Việt
Nam dùng để gọi vợ hoặc chồng còn phát xuất từ ý nghĩa trung thực nhất, thâm
thúy nhất và cao cả nhất trong chương trình sáng tạo và hình thành đời sống hôn
nhân của Tạo Hóa. Trở về với những ngày đầu sáng tạo, và mục đích hôn nhân
trong ý muốn của Thượng Đế, Thánh Kinh kể rằng chính Thượng Đế đã tạo dựng và
phối hợp cho đôi vợ chồng đầu tiên trong vườn Địa Đàng: “Rồi từ chiếc xương
sườn mà Thiên Chúa lấy từ đàn ông, Ngài đã làm nên một người đàn bà và mang đến
cho nó. Và người đàn ông nói: “Bây giờ, đây là xương của xương tôi và thịt của
thịt tôi, nàng sẽ được gọi là ‘đàn bà’, vì nàng được lấy ra từ đàn ông”. Vì lý
do này, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và nên một với vợ mình, và cả hai
sẽ trở nên một thân xác” (Sáng Thế 2:22-24).
Như vậy, vợ chồng không
còn là hai mà là một. Ý nghĩa vừa tôn giáo, vừa tâm lý và vừa thể lý này dẫn
đến việc vợ chồng coi nhau là xương, là thịt của mình và của nhau. Một phần
mình là của người kia, và một phần mình của người kia là của mình. Cả hai đều
bình đẳng, đều có giá trị như nhau trong đời sống hôn nhân của hai người. Cả
hai tạo thành một nhân vị, một con người trong ý nghĩa sáng tạo. Tư tưởng bình
quyền từ tiếng vợ chồng gọi nhau là mình cũng được tìm thấy ở đây. Từ đó suy ra
việc vợ chồng hòa quyện với nhau trong hành động sinh lý không còn là một việc
làm hoàn toàn mang tính cách xác thịt, phàm tục, nhưng là một hành động nuôi
dưỡng tình yêu, tiếp tay trong việc tạo dựng của Thượng Đế. Đây là lý do tại
sao những kẻ gian dâm, ngoại tình là những người không tôn trọng chính mình,
không tôn trọng vợ hay chồng của mình. Họ tự tay phá vỡ hạnh phúc hôn nhân của
họ. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng trong xưng hô hằng ngày với nhau, những
người này không bao giờ gọi nhau bằng những tiếng thân thương như: chồng ơi, vợ
ơi, bố ơi, mẹ ơi, anh ơi, em ơi. Đặc biệt là mình ơi!
Bức tranh về đôi vợ
chồng đầu tiên đã được thi sỹ Nghinh Nguyễn dệt thành bài thơ tuyệt vời bằng
những chữ mình rất say đắm, mặn mà, và linh động:
Mình ơi! Tiếng gọi nhà tôi,
Lời yêu mộc mạc từ thời cổ sơ.
Địa đàng qua một giấc mơ,
Chúa đưa mình đến kết tơ duyên đầu.
Mối tơ duyên thật nhiệm mầu,
Khu vườn hiển hiện một bầu trời thơ.
Xa mình – mình thấy bơ vơ,
Vắng nhà tôi – lại ngẩn ngơ trông tìm.
Bên mình – mình thấy dịu êm,
Xa mình – mình thấy bóng đêm thêm dài.
Nhớ mong, hờn giận chia hai,
Bởi hai trong một nối dài sợi thương.
Tiếng yêu xưa thật bình thường,
Mà sao sâu lắng keo sơn nghĩa tình?
Nhà tôi - mình hởi ơi mình!
Tiếng mình yêu đó kết tình lứa đôi.
Trăm năm tóc bạc da mồi,
Trong ân nghĩa thánh mình tôi hiệp hòa.
Bởi mình là nửa của ta,
Còn ta hơn một phần ba nơi mình….
Thương dùm con chữ... mình ơi! [4]
Những vần thơ có cánh
trên cũng như những lời ngọt ngào, lãng mạn trong bản tình ca của nhạc sỹ Minh
Kỳ, và cùng với những tiếng “mình ơi!” và “nhà tôi” trong thơ Bùi Giáng đã nhắc
tôi nhớ đến “chiếc xương sườn” của mình. Nàng chính là người yêu của tôi, bà xã
của tôi, vợ tôi và nhà tôi. Nàng đã cho tôi biết thế nào là vị ngọt của tình
yêu. Đã đem lại cho tôi những nụ cười, những ánh mắt trìu mến, nhưng cũng đã
lấy đi ở tôi những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt vui mừng, hạnh phúc, đôi
khi hối hận vì đã không làm gì hơn để cám ơn, và để trân quý món quà mà Thượng
Đế đã ban tặng. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của nàng, một lần nữa tôi muốn gói
trọn tình cảm của mình trong tiếng gọi dịu dàng và âu yếm: “Mình ơi!”
Feb 2024
_______________
Tài liệu tham khảo:
1.https://vietbrooms.com/2022/06/08/cach-xung-ho-va-thu-bac-trong-gia-toc-va-xa-hoi-viet-nam-xua/
2.“Anh Tiền Tuyến Em
Hậu Phương”. Nhạc sỹ Minh Kỳ
3. Từ Điển Tiếng Việt –
Nhà xuất bản Hồng Đức.
4. Mình ơi! Nghinh Nguyên.
Vườn Thơ Tkaraoke.
https://poem.tkaraoke.com/31535/minh_oi.html