.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

1. Mục vụ Xã hội Bác ái thời Liên đoàn

2. Mục Vụ Xã hội Bác ái thời Tổ chức Truyền Giáo

3. Mục Vụ xã hội Bác ái thời Giáo Xứ Việt Nam cuối thế kỷ XX

4. Mục Vụ xã hội Bác ái thời Giáo Xứ Việt Nam đầu thế kỷ XXI

5. Liên đới Nghề Nghiệp : Lý do thành lập

6. Liên đới Nghề Nghiệp : Chuẩn bị thành lập

7. Liên đới Nghề Nghiệp : Thành lập

8. Liên đới Nghề Nghiệp : Sinh hoạt từ ngày thành lập

9. Liên đới Nghề Nghiệp : Một dự án tương lai

10. Thay lời kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Mục Vụ Xã Hội, Bác Ái Liên Đới, Giáo Xứ Việt Nam Paris trong 60 năm qua 1947-2007
Tác giả: Gs. Trần Văn Cảnh
5. LIÊN ĐỚI NGHỀ NGHIỆP : LÝ DO THÀNH LẬP

Tất cả các sinh hoạt mục vụ ở Giáo Xứ Việt Nam đều bắt nguồn từ những nhu cầu của giáo dân. Nhưng nhu cầu thì nhiều vô kể, mà khả năng và phương tiện thì hữu hạn. Vấn đề bởi vậy phải suy nghĩ đắn đo chọn sinh hoạt đáp đúng nhu cầu đã vậy, mà còn phải thích hợp với môi trường và hoàn cảnh, thích ứng với phương tiện và khả năng của giáo xứ. Bất cứ hoạt động nào cũng đã được suy tính, xem xét, trước khi đưa vào một chương trình thực hiên. Nhờ ba chương trình mục vụ 1980-1983, 1984-1989 và 1990-1996, Giáo xứ đã thiết lập được một số sinh hoạt và cơ cấu nền tảng. Chương trình 1980-1983[1] đạt 3 kết quả : thành lập nhóm Thần Học Giáo Dân 1980, để đi đến việc tái lập hoạt động thuyết trình hội học từ 1981 và thành lập tổ chức mục vụ tức là Hội Ðồng Mục Vụ vào năm 1983, với các đơn vị mục vụ trong ba lãnh vực thiêng liêng, xã hội và văn hoá.

Chương trình 1984-1989[2] nhằm phát hành Báo Giáo Xứ, bộ mới (1984), Cải tiến việc giáo dục giáo lý và văn hoá Việt Nam cho Ấu Thiếu Nhi và lập Ðoàn Thiếu Nhi Thánh Thể (1986), Tu bổ cơ sở, lập sổ vàng và vận động xin một nhà nguyện rộng lớn hơn (1986), Phát huy lễ hội văn hoá, khởi xướng bữa tiệc xuân giáo xứ (1986), Ðào tạo nhân sự giáo sĩ, đề nghị phong chức phó tế vĩnh viễn (1987) và lập « Hội yểm trợ ơn gọi tận hiến » (1989).

Chương trình mục vụ 1990-1996[3] đã khai mào thêm được ba việc quan trọng : trong lãnh vực văn hoá, lập được một thư viện vào năm 1990, với một kho sách báo có thể đáp ứng nhu cầu tinh thần và văn hoá của người việt nam ; trong lãnh vực thiêng liêng tu đức, lập được phong trào Cursillo vào năm 1993 giúp nhiều giáo dân sống đức tin vũng mạnh hơn và mạnh bạo làm tông đồ hơn ; trong lãnh vực xã hội gia đình, lập được Ban Mục vụ Gia đình vào năm 1995, qui tụ những giáo dân có khả năng văn hoá cao để giúp các linh mục chuẩn bị các bạn trẻ đi vào hôn nhân, tổ chức lễ kỷ niệm hôn nhân, mở lớp đào tạo liên tục cho các phụ huynh các gia đình trẻ qua ngày gia đình, lập lễ mừng thượng thọ cho các bậc lão niên từ 60 tuổi trở lên.

Chương trình mục vụ 1997-2001 đi một bước xa hơn và táo bạo hơn trong lãnh vực văn hoá và xã hội :

  • Tu thư tập thể, viết sách chung, từ năm 1997.
  • Liên đới nghề nghiệp trong các ngành có nhiều người việt nam, từ năm 2000.

Trong hai hoạt động « táo bạo » này, hoạt động tu thư tập thể có tính chất độc đáo văn hoá, đã được trình bày trong lãnh vực mục vụ văn hoá. Trong bài khảo luận này, chúng ta sẽ cùng nhau nhìn xem Hoạt động Liên đới nghề nghiệp ở Giáo Xứ Việt Nam. 

 

1.      Tại sao Liên Đới Nghề Nghiệp

Liên đới là hướng đi chung của xã hội hôm nay. Con người liên đới với nhau trong mọi phạm vi sinh hoạt, chính trị, xã hội, kinh tế văn hóa và tôn giáo ; trong mọi hình thái tập thể, quốc tế, châu lục, quốc gia, sắc tộc, cộng đồng, cộng đòan, ngành nghề, giới phái, lứa tuổi ... «Liên đới huynh đệ» là câu nói đầu lưỡi của con người từ sau đại chiến thứ hai, và đặc biệt từ đầu niên kỷ này. Vì thế, không lạ gì khi Công Đồng Vatican II (1960-1965) đã nhiều lần nhấn mạnh đến tinh thần liên đới mà người công giáo phải ý thức và phải thực hiện. Không thể trích dẫn toàn vẹn, chúng ta tóm lược giáo huấn của Công Đồng như sau : «Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để sống riêng rẽ nhưng để tạo nên sự liên kết trong xã hội (MV 32). Ngày nay hơn khi nào hết, thế giới ý thức rằng mọi người đều phải tùy thuộc lẫn nhau trong tinh thần liên đới cần thiết (MV 4). Mỗi người phải nhìn nhận và tôn trọng những liên đới xã hội như là một trong những nghĩa vụ chính yếu của con người thời nay (MV 30). Vì thế Giáo Hội luôn tìm cách thiết lập nền tảng vững chăc cho nền liên đới xã hội (MV 89). Người kitô hữu phải tìm cách dung hòa sáng kiến cá nhân với tình liên đới và với những đòi hỏi của tòan thể xã hội (MV 75). Người giáo dân phải liên kết với đồng bào mình để làm triển nở mối liên kết mới về hiệp nhất và về tình liên đới với hết mọi người (TG 21). Người Kitô hữu phải biến ý nghĩa hiện đại về tình liên đới thành khát vọng chân thành và thiết thực về tình huynh đệ (TĐ 1). Tóm lại, trong Giáo Hội, giáo dân phải liên đới với nhau như các chi thể trong một nhiệm thể (GH7). Tình liên đới đích thực và cao độ ấy phải được thể hiện cụ thể và lâu bền trong Dân Chúa (GH 13), trong mỗi Cộng Đoàn (MV 32)».

Trở về nguồn : Liên đới nghề nghiệp không phải là điều mới lạ. Dưới những danh xưng, chủ đích và hình thái tổ chức khác nhau, xã hội cũng như  tôn giáo, liên đới nghề nghiệp đã có từ lâu đời rồi. Như ở Việt Nam, chúng ta biết «những người cùng làm một nghề họp nhau lại để giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau, gọi là Phường. Phuờng có thể có giấy phép của chính quyền để hoạt động, hoặc phường cứ hoạt động theo tục lệ và không phạm tới phép làng. Dưới thời Pháp thuộc, nhiều phường ở làng quê xin cấp giấy phép để được có tư cách pháp nhân, vì thường phường cũng có tài sản và tiền nong. Thường mỗi phường thờ một thánh sư và hàng năm có ngày giỗ Thánh sư gọi là ngày giỗ phường[4]. Tại Nghệ Tĩnh trong các làng quê, có phường vải, phường củi, phường đan, phường nón... Những người đi buôn bán ngược xuôi cũng họp nhau thành phường buôn : phường gạo, phường chè, phường củ nâu... Các nghệ sĩ họp lại thành phường chèo, phường bát âm, phường cô đào. Những người cùng quê quán làm ăn nơi khác, nhất là ở đô thị, lại họp nhau thành họ : Họ Bắc Ninh, họ Thanh Hóa... cũng để nhằm mục đích tương tế. Ngoài ra một số người hạn chế, với mục đích tiết kiệm tập thể giúp nhau phát triển nghề nghiệp họp nhau lại thành : họ bánh chưng, họ giò chả, họ gạo, họ thịt. Ngay vấn đề giải trí, người ta cũng họp thành hội : hội chọi gà, hội chơi diều, hội đua thuyền ... Ngoài ra các bà cùng lên đồng họp lại thành hội đội bát nhang ; những người sinh cùng năm họp nhau lại thành hội đồng tuế[5]... Tại Hà Nội có rất nhiều phường, và mỗi phường ở một khu, sau biến thành phố. Vì thế mới có phố hàng Đào, phố hàng Giấy, phố hàng Đường, phố hàng Chiếu... Tóm lại «Phường là một tập thể, tập thể quy tụ những người cùng nghề». Đi xa hơn, còn có Hội Bách Nghệ là bao nhiêu người làm chung một nghề gì hoặc thợ mộc, hoặc thợ nề, hoặc thợ sơn thợ sắt... Người làm nghề gì vào hội ấy, chọn cử một người làm trưởng hội, hoặc mỗi năm cắt lượt nhau làm trưởng hội một lần để chứa việc hội[6]». Cũng với tinh thần tương trợ mà từ lâu giữa người Việt Nam có lối chơi hụi rất thịnh hành.

Công giáo tiến hành : Giữa người Việt Nam tại quê nhà cũng như ở ngoại quốc, chưa có những đoàn thể công giáo tiến hành dưới dạng thức liên đới nghề nghiệp, ngoại trừ tại Sài Gòn vào các thập niên 1960-1970 có những hội đoàn chuyên biệt như Phong Trào Sinh Viên và Học Sinh Công Giáo, Đoàn Thanh Lao Công[7]. Nhưng tại các Giáo Hội Âu Mỹ, kể từ thập niên 1940, đã xuất hiện nhiều đoàn thể công giáo tiến hành dưới dạng thức liên đới nghề nghiệp và mầu sắc xã hội. Vì chúng ta sống tại Pháp, nên xin lấy Gíáo Hội Pháp làm tỉ dụ. Phong trào Công Giáo Tiến Hành Công Nhân (A.C.O.) có từ 1945, nhưng mãi tới 1950 mới được tổ chức thành phong trào quốc tế và được Đức Piô XII chúc lành, khuyến khích. Mục đích của phong trào là đáp ứng những nhu cầu mục vụ và truyền giáo trước những thay đổi lớn về chính trị và làn sóng nghiệp đoàn công nhân sau đệ nhị thế chiến. Người có công trong phong trào này là cha Lombardi dòng Tên, người Ý. Ngài đã đi vận động khắp nơi như Ý, Pháp, Bồ Đào Nha, Mễ Tây Cơ... để đặt cơ sở phong trào từ giáo xứ, giáo phận, quốc gia và quốc tế. Tại Ý đã có 60 giám mục và 6.000 linh mục tham dự các khoá học hỏi về phong trào. Một Công Nghị Quốc Tế đã được tổ chức tại Roma (1950-1951)[8]. Từ đó, phong trào Công Giáo Tiến Hành Công Nhân tại Pháp liên kết hoạt động với các phong trào hay hội đoàn công nhân khác đã có lịch sử lâu đời, như :

  • ACGF (Action Catholique Générale Féminine : Tổng Hội Công Giáo Tiến Hành Nữ Giới), thành lập 1933, hiện có 30.000 hội viên, chia thành 3.300 nhóm.

  • JOC (Jeunesse Ouvrière Chrétienne : Thanh niên Thợ Thuyền Kitô Giáo), thành lập 1926. Hiện nay, Đại Hội thường niên có trên dưới 100.000 người trẻ tham dự, và sinh hoạt thường xuyên trong 12.000 tổ.

  • JIC (Jeunesse Indépendante Chrétienne : Thanh niên Kitô Giáo làm nghề tự do), thành lập 1935, hiện nay có chừng 4.000 người trẻ, đa số thuộc gia đình trung lưu hay qúy tộc.

  • MRJC (Mouvement Rural de Jeunesse Chrétienne : Phong Trào Thanh Niên  Thôn Quê Kitô Giáo) Hiện nay phong trào gồm 3 ngành : Jac (Jeunesse Agricole Chrétienne : Giới trẻ Nông thôn Kitô) 15% ; JTS (Jeunes Travailleurs Salariés : Giới trẻ công nhân) 15% ; GE (Groupe École : giới trẻ còn là học sinh và sinh viên), 60%. Còn 10% người trẻ thuộc các môi trường khác.

  • JEC (Jeunesse Étudiante Chrétienne : Nữ Sinh Viên Kitô), thành lập từ 1929, hiện nay có chừng 1.500 hội viên từ 15-25 tuổi[9].

Một trong những người đã đem Công Giáo Tiến hành vào thế giới thợ thuyền là Đức Hồng Y Cardjin, người Bỉ. Ngài đã nói : «Trong thế giới lao động có nhiều ngành nghề, mỗi người kitô hữu làm cùng một nghề nên ngồi lại với nhau để chia sẻ cho nhau kinh nghiệm và vui buồn trong nghề, cùng nhau cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa hầu có thêm nghị lực sống đạo trong việc làm mỗi ngày, cùng nhau tìm ra những sinh hoạt tông đồ và truyền giáo thích hợp với nghề nghiệp riêng của mình. Lời Chúa đến với thế giới qua họ, Giáo Hội hiện diện được trong mọi môi trường nhân loại nhờ họ. Đó chính là những mục tiêu mà Liên đới nghề nghiệp nhằm tới»[10]. Ý kiến của Đức Hồng Y Cardjin còn giá trị quy ước cho những hình thái Liên đới nghề nghiệp hôm nay.

Chúng tôi vui mừng tìm được ý nghĩa sâu đậm hơn của cụm từ «liên đới nghề nghiệp» trong lời sau đây của Đức Giáo Hoàng Piô XII : «Theo thánh ý của Thiên Chúa, mọi nghề nghiệp đều chứa đựng một sứ mạng. Sứ mạng đó có ba đối tượng : Bản thân, tha nhân và Thiên Chúa » (Sứ điệp gửi JOC 1957). Theo chúng tôi hiểu :

  • Bản thân : Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Nhờ làm việc chúng ta hoàn tất việc sáng tạo con người chúng ta. Chúng ta phát triển về thân xác cũng như về tinh thần, chúng ta tăng cuờng nghị lực, tôi luyện ý chí, chúng ta thành con người hữu ích, có nhân cách, giầu kinh nghiệm cuộc sống... Chúng ta xứng đáng là cộng tác viên của Đấng Tạo Thành.
  • Tha nhân : Không ai là một ốc đảo, không ai chỉ sống cho mình. Mọi người phải sống với người khác, cho người khác, nhờ người khác và vì người khác : Trong mọi thời và nhất là thời nay, những danh từ «liên đới, hiệp nhất, chia sẻ, tương trợ, phục vụ» trở thành phương châm cho mọi phạm vi cuộc sống (tôn giáo, gia đình, đoàn thể, xã hội, chính trị) và cụ thể là đời sống nghề nghiệp. Trong sinh hoạt mục vụ cộng đoàn, Liên đới nghề nghiệp là một thể hiện Bác ái cụ thể và cao độ giữa những kitô hữu cùng làm một nghề.
  • Thiên Chúa : Tất cả là hồng ân và tất cả vì danh Chúa. Làm việc là thánh ý Chúa dành cho mỗi người, không trừ ai, «Ta làm việc, vì Cha Ta vẫn làm việc» (Gn 5,17). Trước mặt Chúa, không việc nào hèn mọn. Với tình yêu liên đới, tình yêu hiệp nhất, tình yêu chia sẻ, tình yêu tương trợ, tình yêu phục vụ... chúng ta sẽ đạt được chóp đỉnh của tình yêu Liên đới nghề nghiệp, phát triển bản thân, nuôi sống gia đình, phục vụ tha nhân và đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, vào vinh danh Thiên Chúa »[11] 

 

Paris, ngày 21.06.2007

Trần Văn Cảnh
 


[2] Về Chương trình 1984-1989, Xin xem thêm Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris

[3]  Vể Chương trình mục vụ 1990-1996, Xin xem thêm Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris

[4] Toàn Ánh, Làng Xóm Việt Nam, T/p Hồ Chí Minh, 1992, tr. 146-147.

[5] Toàn Ánh, Hội Hè Đình Đám (quyển hạ), T/P Hồ Chí Minh, 1992, tr. 330-331 

[6] Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Đông Phương tạp chí, 1914-1915, tr. 774.

[7] ĐC Nguyễn Khắc Ngữ, Công Giáo Tiến Hành Việt Nam, Sài gòn, 1962, tr.90-91 (Đa số các hội đoàn là thuần túy đạo đức : Legio Mariae, Phạt tạ Thánh Tâm, Hiệp hội Thánh Mẫu...) – Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, II, Sài gòn, 1962, tr. 487-514

[8] Collectif, Problèmes du laicat, Resurrection, revue de doctrine et d’actualité chrétiennes, 3e&4e trimestre 1957, tr. 111-114.

[9] Collectif, Problèmes du laicat, Resurrection, revue de doctrine et d’actualité chrétiennes, 3e&4e trimestre 1957, tr. 111-114.

[10] Alphonse Borras, Des Laics en responsabilité pastorale ?  Cerf, Paris 1998,tr. 98

[11] Báo Giáo Xứ VN, Paris, số 184, 6.2002, tr. 19

Tác giả Gs. Trần Văn Cảnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!