10.   "Hãy tìm kiếm Ta và các ngươi sẽ được sống"

Ngay từ những thế kỷ đầu việc nước được đem thảo luận trong dân Israel. Có những đàn ông, đàn bà, phía bắc cũng như phía nam của xứ này, có thể giúp ý vua khi vua có những quyết định quan trọng. Họ can ngăn vua khi họ nghĩ là vua sai lầm. Họ có can đảm để nói trực tiếp về lỗi lầm của nhà vua.

Người ta gọi các ông các bà này là "ngôn sứ". Họ tự giới thiệu mình là phát ngôn của Thiên Chúa. Không phải họ tự ý mình mà nói, nhưng bởi vì Chúa đã bảo họ.

Một vài vị ngôn sứ giải thích cho hay bằng cách nào Chúa đã gọi họ để lên tiếng nhân danh Ngài.

Chẳng hạn như bản văn được ngôn sứ Isaia viết lại vào khoảng năm 700 trước Chúa Giêsu Kitô.

Vào năm vua Ôdiát băng hà, tôi đã thấy Chúa trong một kiến thị. Ngài ngồi trên ngai rất cao và các vạt áo Ngài phủ lên Đền Thánh. Các thiên thần Sêraphim đứng cạnh Ngài. Họ hát vang cùng nhau những lời này: "Thánh, thánh, thánh, Chúa là Chúa vũ trụ, toàn thể trái đất đầy vinh quang Ngài!"

Nghe tiếng đó các cánh cửa rung chuyển và tòa nhà phủ đầy khói. Tôi thưa:

"Khốn cho tôi! Tôi chết mất thôi,

vì tôi là một người môi miệng dơ bẩn,

tôi ở giữa một dân tộc có môi miệng dơ bẩn,

và mắt tôi đã thấy vua, Chúa của vũ trụ".

Một trong các thiên thần Sêraphim bay đến phía tôi, lấy than lửa ở bàn thờ kẹp bỏ vào môi tôi và nói:

"Này, lửa này đã đụng đến môi ngươi;

miệng ngươi không còn ô uế, tôi ngươi được xóa sạch".

Tôi liền nghe tiếng Chúa phán cùng tôi:

"Ta sẽ sai ai? Ai sẽ là sứ giả của Ta?"

Tôi thưa:

"Con đây, Ngài có thể sai con".

(IS 6,1-8)

Trong bản văn này Isaia nhận rằng mình không đáng là ngôn sứ. Có khảong cách quá lớn giữa Thiên Chúa và con người!

Chính Chúa làm cho khoảng cách đó không còn và cho ngôn sứ có quyền nói thay Ngài.

Các ngôn sứ phải hết sức can đảm, nhất là khi phải tố giác những điều chướng tai cho chính vua nghe. Như ngôn sứ Natan đã phải lên án vua Đavid sau khi vua ngoại tình với Bétxabê và cho ám sát Uri. Như ngôn sứ Êlia hoàn thành sứ mạng đặc biệt khó khăn khi đối đầu với Asát.

Nabốt thuộc nhà Gítrêen có một vườn nho, cạnh vương cung Asát, vua xứ Samaria. Asát đề nghị với Nabốt:

"Hãy để lại cho ta vườn nho của ngươi để ta biến nó thành vườn cây ăn trái của ta, phải chăng nó ở cạnh vương cung của ta; ta sẽ đổi cho ngươi một vườn nho tốt hơn hoặc nếu ngươi muốn ta trả tiền đúng theo giá của nó".

Nhưng Nabốt nói với Asát:

"Vì Chúa ngăn không cho tôi trao cho ai cơ nghiệp tôi đã lãnh nhận từ tổ tiên tôi!"

Asát trở về cung, bực tức vì Nabốt nhà Gítrêen đã từ chối trao cho ông mảnh vườn, là gia nghiệp của tô tiên ông ta.

Ông đi nằm, quay mặt vào tường và không màng ăn uống gì. Vợ vua là Gêdaben đến cạnh vua và thưa:

"Sao ngài có vẻ bực tức và không muốn ăn uống gì cả?"

Asát kể cho vợ nghe chuyện đã xảy ra. Bấy giờ Gêdaben liền bàn:

"Phải chăng ngài là vua của Israel! Xin ngài đứng dậy dùng bữa và cứ yên tâm. Thiếp sẽ có cách lấy vườn nho của Nabốt cho ngài".

Gêdaben liền thay mặt Asát viết thư, đóng triện nhà vua. Bà gởi thư này cho các thủ lãnh và đầu mục thành phố nơi Nabốt cư ngụ. Bà viết thế này: "Các ngươi tổ chức một buổi lễ ăn chay và yêu cầu Nabốt trình diện trước mọi người. Các ông đưa hai tên vô loại đến đối diện vối ông ta để tố cáo Nabốt như sau: "Nhà ngươi nhục mạ Thiên Chúa và nhà vua!" Các ông dẫn hắn ta ra ngoài và đôi đá cho chết".

Các thủ lãnh và đầu mục thành phố tuân theo chỉ thị của Gêdaben đã viết trong thư gởi đến họ. Sau đó họ báo cho Gêdaben:

"Nabốt đã bị ném đá chết rồi".

Khi Gêdaben hay tin Nabốt đã chết liền thưa với Asát:

"Ngồi dậy đi. Ngài có thể làm chủ vườn nho của Nabốt rồi đó, vì Nabốt không còn sống nữa, hắn đã chết rồi".

Asát chổi dậy đến vườn nho của Nabốt để làm chủ.

Bấy giờ Êlia, từ Tíchbê, nhận lệnh của Chúa:

"Ngươi hãy đi gặp Asát, vua của Israel đang ở Samaria. Vua đang đến dành vườn nho của Nabốt. Ngươi nói với vua điều này: "Này Chúa phán: Ngay nơi mà chó đang liếm máu của Nabốt, thì cũng nơi đó chó sẽ liếm chính máu ngươi".

Asát nói lại với Êlia:

"Nhà ngươi lại tìm ta, ngươi là kẻ thù của ta!"

Êlia trả lời: "Tôi tìm ngài vì ngài gian ác; ngài đã xử sự trái với ý Chúa. Vì thế tôi sẽ gởi hoạn nạn đến trên ngài. Ngài sẽ không có con nối dòng; tôi sẽ làm cho toàn nhà ngài không ai sống sót. Vì ngài làm tôi phải nổi giận và đã đẩy đưa Israel vào đường tội lỗi, tôi sẽ xử đối với gia đình ngài như đã từng xử đối với gia đình Giêrôbôam, con của Nêbát, và gia đình Bátxa, con Abida. Mọi người trong nhà Asát chết trong thành thì bị chó ăn, chết ngoài đồng thì chim rỉa. Và đây là lời Chúa báo cho Gêdaben: "Chó sẽ xé xác Gêdaben gần tường nhà Gítrêen".

Khi Asát nghe những lời dọa nạt đó, thì liền xé áo mình ra, mặc bao vải lên mình và ăn chay. Ông mang bao vải đó mà ngủ. Ông đi đứng chậm rãi. Bấy giờ Chúa nói với Êlia xứ Tíchbê:

"Nhà ngươi có thấy Asát hạ mình đối với Ta không? Vì nó tỏ ra khiêm tốn, Ta sẽ không gieo họa trong những ngày nó còn sống. Đến thời con nó Ta sẽ đổ hoạn nạn xuống nhà nó".

(2 CV 21,1-29)

Sứ điệp của một ngôn sứ đã được chép lại. Những ngôn sứ này không phải chỉ nói với vua, mà còn nói với toàn dân. Họ hay loan báo những hoạn nạn như là kết quả của cuộc sống đồi trụy của người ta.

Các ngôn sứ có sứ mạng lưu ý người thành tín khi các giới răn của Chúa không còn được người ta tôn trọng. Các ngài tố cáo sự thiếu tin tưởng, bất công và dối trá.

Ngôn sứ Amót (năm 750 trước Chúa Giêsu Kitô) sống vào một thời thái hòa của dân Israel, giàu có và an bình. Nhưng sự giàu có và an cư đã được chia sẻ một cách công bằng.

Theo lời Chúa dạy, Amót lên tiếng bênh vực người nghèo. Ông cho hay những kẻ tạo ra sự nghèo khốn nầy sẽ bị phạt.

Khốn cho những ai thay đổi các luật pháp

và biến chúng thành cay nghiệt như dấm đắng,

những ai chà đạp công lý xuống đất.

Chúng ghét bỏ những người đề cao pháp luật ở tòa án,

chúng không ưa người nói sự thật.

Vì các ngươi áp bức kẻ yếu hèn,

và vì các ngươi bắt họ phải chịu thuế đánh vào lúa mì,

các ngươi sẽ không cư ngụ được nơi căn nhà

mà các ngươi từng xây bằng đá tảng,

các ngươi sẽ không uống được rượu

của vườn nho các ngươi trồng.

ta biết tội các ngươi

và vô số lỗi các ngươi phạm.

các ngươi đày đọa trẻ thơ trong cảnh khốn cùng,

các ngươi tham lam,

coi rẽ quyền lợi của kẻ nghèo trước tòa án

(và vì thế ai khôn hồn thì đành câm nín,

vì biết rằng nói lên lúc này là nguy hiểm).

Các ngươi hãy làm việc thiện, tránh việc ác,

và các ngươi sẽ được sống,

và Chúa là Thiên Chúa sẽ ở với các ngươi.

Hãy bỏ điều gian ác, hãy yêu việc thiện,

hãy làm cho công lý hiện diện nơi tòa án.

Như thế có thể Chúa là Thiên Chúa của toàn vũ trụ

sẽ thương tình số còn lại của hậu duệ nhà Giuse?

(Am 5,7.10-15)

Khốn cho ai sống thoải mái ở Sion,

sống an nhiên tự tại trên núi Samaria.

Khốn cho các đầu mục của dân trên các dân,

các kẻ đúng ra phải làm gương cho dân Israel.

Chúng nằm trên giường ngà,

sải bụng trên các ghế dài sang trọng,

ăn thịt cừu hảo hạng

và bò tơ béo bắt trong chuồng;

các ngươi ngâm nga đàn ca xướng hát,

bày đủ thứ dụng cụ âm nhạc như Đavid,

các ngươi uống rượu trong bình thật lớn,

xức đủ loại nước hoa,

mà không lo đến vận mạng của dân ta!

Vì thế các ngươi sẽ thấy

tại sao các ngươi là những kẻ đầu tiên bị đi đày ải,

cuộc vui của kẻ ươn hèn chấm dứt!

Chúa là Thiên Chúa đã thề là sẽ làm điều đó,

Chúa là Chúa vũ trụ đã phán ra;

Ta ghê tởm cảnh xa hoa của Giacóp,

Ta ghét bỏ các lầu đài của nó,

và Ta sẽ trao vào tay quân thù thành phố và của cải trong đó.

(Am 6,1.4-8)

Các ngươi hãy nghe lời ta nói đây, các ngươi là những người đàn áp kẻ nghèo và muốn những kẻ bé nhỏ trong xứ phải bị tiêu diệt.

Các ngươi nói: "Mong sao các ngày lễ đầu tuần trăng qua đi để chúng ta có thể bán lúa mì, và mong sao ngày lễ Sabát sớm chấm dứt để chúng ta có thể mở kho lúa! Chúng ta có thể sửa đấu đo, tăng giá và cân sai. Và như thế là có thể mua đứt người nghèo bằng tiền, và đổi kẻ khốn cùng với giá một đôi dép; chúng ta có thể bán đến tận hạt trấu cũng không chừa". Chúa thề sẽ không bao giờ quên việc các ngươi làm.

(Am 8,4-7)

Sứ điệp của Amót thật rõ ràng: Chúa không chấp nhận việc luật pháp và công lý bị chà đạp. Ai bất tuân giới răn Chúa sẽ bị Chúa phán xét.

Amót cảnh cáo rõ ràng: Không ai có thể thoát khỏi việc phán xét này. Hình phạt của Thiên Chúa xem ra không thể tránh được.

Này đây Chúa cho tôi thấy một thị kiến: Tôi đã thấy một giỏ đựng đầy trái cây chín. Ngài bảo tôi: "Amót, ngươi thấy gì?" Tôi liền thưa: "Một giỏ đầy trái chín". Bấy giờ Chúa phán cùng tôi: "Dân Ta đã chín mùi, giờ đã điểm; bây giờ Ta không tha cho chúng nữa. Ngày đó các kỷ nữ ca hát sẽ than khóc, lời Chúa phán như thế. Xác chết chất đầy, và khắp nơi đều xảy ra như thế. Bấy giờ chỉ còn thinh lặng mà thôi!"

(Am 8,1-3)

Sứ ngôn Isaia cũng từng tố cáo bất công và cho hay về việc Chúa đe dọa phán xét. Ông lên án những tầng lớp cai trị.

Hỡi dân ta,

những kẻ cai trị ngươi đang nghiền nát ngươi,

những thứ tham lam đang thống trị ngươi.

Hỡi dân ta, các thủ lãnh ngươi làm người lầm lạc,

và dẫn ngươi trên nẻo đường sai trái.

Chúa sẽ đích thân xét xử dân Ngài,

Ngài sẽ lên tiếng kết án nó.

Chúa kết án xử

những người cai trị và vua chúa của dân Ngài:

"Chính các ngươi đã phá vườn nho Ta,

và nhà các ngươi chất đầy

của cải các ngươi đã ăn cắp người nghèo.

Các ngươi lấy quyền gì chà đạp dân Ta,

và dám nghiền nát người nghèo?"

Đó là lời Chúa, Thiên Chúa toàn vũ trụ.

(Is 3,12-15)

Chúa từ chối lễ vật và kinh nguyện của dân Ngài, vì người ta không sống chung được với nhau và bất công gia tăng tràn ngập. Thờ phượng Chúa và phục vụ anh em phải đi đôi với nhau; quên một trong hai, các việc làm không có giá trị gì.

Hỡi những kẻ làm thủ lãnh Sôđôma,

hãy nghe lời Chúa,

hãy học biết lời Chúa chúng ta chỉ dạy,

hỡi dân Gômôrê!

Chúa phán, Ta không cần đến lễ vật của các ngươi,

Ta không thèm đến các lễ vật toàn thiêu

bằng lừa và mỡ bò.

Máu bò, chiên dê làm Ta ghê tởm.

Các ngươi đến trước nhan Ta làm gì?

Ai mời các ngươi đến trong các sân Đền Thánh Ta?

hãy chấm dứt việc mang lễ vật vô ích:

Ta ghét khói hương của chúng.

Nào lễ đầu tuần trăng, Sabát, hội họp...

Ta không chịu nổi các ngày lễ lạc của các ngươi.

Những lễ đầu tuần trăng và các cuộc thánh du,

Ta ghê tởm chúng.

Đó là gánh nặng cho Ta

và Ta mệt nhọc vì phải chịu đựng chúng!

Khi các ngươi giang tay lên Ta cầu nguyện,

Ta quay mặt,

các ngươi có mãi cầu xin, Ta không màng nghe.

Tay các ngươi đầy máu. hãy đi rửa và thanh tẩy.

Hãy vất bỏ nỗi gian ác trên mình các ngươi,

đừng làm bẩn mắt Ta.

hãy ngưng làm ác,

và cố học làm việc thiện,

hãy tìm kiếm công chính,

hãy cứ giúp kẻ bị áp bức,

hãy công bằng với kẻ mồ côi,

và bảo vệ bà góa.

(Is 1,10-17)

Isaia rất lưu ý đến các quyết định chính trị trong triều vua. Ông nhận thấy các người điều khiển dân chúng chỉ lưu ý đến khía cạnh con người. Những người điều khiển này không lưu ý đến ý của Thiên Chúa. Họ quên rằng chỉ có Chúa mới cứu giúp được họ.

Đấy là dân bội phản,

gồm toàn lũ láo khoét,

không muốn nghe lời Chúa dạy.

Họ nói với kẻ có thị kiến: "Chớ có thị kiến gì nữa",

và với các ngôn sứ:

"Đừng nói sự thật cho chúng tôi nghe nữa;

các ngươi hãy nói những điều dễ nghe,

hãy kể lại những giấc mơ ca tụng chúng tôi.

Hãy đi nơi khác, hãy xa lánh chúng tôi,

đừng nhắc chúng tôi mãi ở trước mặt Chúa,

Đấng Thánh của Israel".

Vì thế, này đây là lời Đấng Thánh Israel phán dạy:

"Vì các ngươi vứt bỏ lời cảnh giác này,

và chỉ tin vào lời láo khoét gian trá,

lỗi các ngươi như một mảng lớn lù lù

nằm trên thành lũy,

đột nhiên sụt xuống ập trên các ngươi,

như bình sứ vỡ tan tành nghìn mảnh,

đến độ không còn một miếng nhỏ nào

có thể đựng được chút nước trong vũng!"

Đấy là lời Chúa Thiên Chúa, Đấng Thánh Israel.

Các ngươi sẽ tìm được ơn cứu độ

khi trở lại với Ta và chịu ở yên,

các ngươi sẽ lấy lại sức lực

khi không còn múa máy, và tin vào Ta.

Nhưng các ngươi lại không muốn!

(Is 30,9-15)

Tuy vậy, ngôn sứ loan báo sự nhân hậu của Thiên Chúa. Tình yêu của Chúa ở trên hết mọi sự. Chúa không thể bỏ dân Ngài. Một tương lai mới có thể mở ra. Ơn cứu độ cho dân Israel sẽ bắt đầu với một vị vua mới.

Một cành sẽ đâm chồi từ cây già Giétxê,

một chồi non sẽ vươn lên từ rễ của nó.

Thần khí của Chúa luôn ở trên người đó,

Thần Khí ban khôn ngoan và thông thái,

cẩn trọng và can cường,

hiểu biết và kính sợ Thiên Chúa.

Người sẽ kính trọng Thiên Chúa.

Người sẽ không phán xét dựa vào hoàn cảnh bên ngoài,

Người sẽ không quyết định gì theo lời người ta đồn đãi;

nhưng người sẽ phán xử kẻ yếu kém trong công chính,

người làm cho luật pháp được tôn trọng

đối với những dân nghèo trong xứ.

Người sẽ đuổi kẻ bạo tàn bằng lời nói,

và lấy hơi thở chấm dứt kẻ gian ác.

Sự công chính sẽ như giây lưng ràng buộc quanh hông,

sự chính trực cuộn lấy quanh mình người.

Bấy giờ sói sống chung với cừu,

báo ngủ gần dê tơ;

bò non và sư tử cùng ở chung;

sư tử cũng như bò sẽ gặm rơm;

trẻ thơ vui đùa bên hang rắn,

trong chỗ rắn nằm, trẻ nhỏ có thể thò tay.

Sẽ không còn sự ác, và tai vạ

trên núi thánh của Ta,

vì xứ sở sẽ đầy sự hiểu biết Thiên Chúa,

như nước gặp lại đáy biển sâu.

(Is 11,1-9)

Vị vua đó cũng gọi là Đấng Thiên Sai. Ngài sẽ lo thực hiện sự công chính của Thiên Chúa trong cách sống và hành vi của Ngài.

Ngôn sứ Giêrêmia nhân danh Thiên Chúa loan báo lời hứa ban một vị kế nghiệp Đavid, vị này mở ngỏ giúp con người đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa phán,

sẽ có ngày

Ta cho Đavid một kẻ nối nghiệp;

đó sẽ là vị vua khôn ngoan

cai trị xứ sỏ bằng luật và công lý.

trong triều đại Người, Giuđa sẽ được cứu độ,

Israel sẽ sống an bình.

Và đây là tên mà người ta gọi Người:

"Chúa sự công chính của chúng ta".

(Giêr 23,5-6)

Sứ điệp của Isaia đem lại an bình và hy vọng cho dân Israel. Tương lai ở trong tay Chúa; đó là một lý do khiến con người hoan hỉ.

Ước gì sa mạc và đất khô cằn hãy hoan hỉ,

đồng khô có thể vui mừng vì có hoa phủ,

như cành cẩm chướng, nó sẽ nở hoa.

Nó sẽ nhảy mừng và lớn tiếng hòa ca.

Cảnh hùng vĩ xứ Libăng,

diễm kiều của núi Cátminh

và đồng bằng Sarông tất cả sẽ được ban cho nó.

Bấy giờ người ta sẽ chứng kiến vinh quang Thiên Chúa,

sự huy hoàng của Chúa chúng ta.

Hãy giữ cho tay mõi mệt cương cường lên,

hãy làm cho đầu gối rã rời đứng vững.

Hãy nói với những ai tâm can đầy lo lắng:

"Can đảm lên, chớ sợ! Này Chúa các ngươi!

Ngài đến báo thù cho các ngươi và thưởng các ngươi;

Ngài đích thân đến cứu chúng ta".

Bấy giờ mắt người mù sẽ bắt đầu thấy,

tai người điếc sẽ mở ra;

bấy giờ người què nhảy nhót như nai,

và người câm sẽ hét lên vui mừng,

vì nước sẽ tuôn ra từ sa mạc,

và các suối chảy trong đồng khô.

Đất khô sẽ trở thành hồ,

và xứ hạn hán sẽ đầy suối nước.

Trong hang sói,

cây lau, cây sậy mọc lên.

Sẽ có một con đường ở đó,

được gọi là thánh đạo.

Ai không trong sạch sẽ không đi qua được,

kẻ điên rồ không được vảng lai.

Không còn thấy có sư tử,

một dã thú nào nhảy nhót nơi đây.

Đó chính là nơi đi lại của những ai Chúa đã cứu chuộc,

là nơi lai vãng của kẻ đã được Chúa cứu thoát.

Họ sẽ đến Sion với những bài ca khải hoàn,

một niềm vui tràn trề làm rạng rỡ khuôn mặt họ,

một niềm vui tràn ngập tâm hồn,

bấy giờ ưu sầu và phiền não sẽ biến tan.

(Is 35)

 

  CỰU ƯỚC

*     Dẫn nhập

1. Lạy Chúa là Thượng Đế, Ngài thật là cao cả

2. Lạy Chúa, Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân Chúa

3. Ta sẽ làm cho con thành một dân tộc lớn

4. Thiên Chúa ở với Giuse

5. Ta sẽ đưa các con ra khỏi Ai Cập

6. Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi

7. Ta sẽ kết một giao ước với các ngươi

8. Ta sẽ ban cho các ngươi một xứ sở

9. Chúa cai trị

10. Hãy tìm kiếm Ta và các ngươi sẽ được sống

TÂN ƯỚC

*     Dẫn nhập

1b. Đấng Cứu Thế sinh ra cho các bạn

2b. Con là Con yêu dấu của Ta

3b. Danh tiếng Ngài đồn ra khắp vùng

4b. Các dụ ngôn

5b. Người này là ai vậy?

6b. Ngài quyết định lên đường về Giêrusalem

7b. Đức Kitô chẳng phải chịu những đau khổ này sao?

8b. Các con sẽ là nhân chứng của Ta.