4b.  Các Dụ Ngôn

Chúa Giêsu không nói với dân chúng bằng những diễn văn trang trọng. Ngài cắt nghĩa cho họ ý nghĩa của nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa là ai bằng các hình ảnh so sánh, các dụ ngôn.

Các dụ ngôn là những câu truyện sống động và cụ thể, với các hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống của con người.

Dụ ngôn được trích dẫn đầu tiên ở đây là lời kêu gọi cần có lòng trông cậy. Mặc dù hạt giống bị tiêu mất đi, nhưng đất mầu mỡ đã cho nó hoa mầu gấp trăm. Mặc dầu gặp bao nhiêu thất bại, Nước Chúa chắc chắn sẽ thành công.

Các dụ ngôn thường không cần phải giải thích đối với thính giả đương thời của Chúa Giêsu. Lời giải thích ghi trong bản văn là để làm cho dụ ngôn phù hợp với thính giả về sau của cộng đoàn Kitô hữu thời kỳ đầu. Nên ta hiểu dụ ngôn người gieo giống là một lời mời gọi trở nên mảnh đất phì nhiêu và nghe Lời Chúa.

Ngài dùng dụ ngôn này nói với đoàn lũ người tụ họp đến từ mọi thành phố:

"Một người gieo giống đi gieo hạt. Khi ông gieo vãi, có hạt rơi bên vệ đường và bị người ta dẫm lên hoặc chim đến ăn mất. Có hạt rơi trên đá và khi nó mọc lên nó bị khô héo ngay vì không có nước. Có hạt rơi giữa bụi gai, cũng mọc lên nhưng bị gai lấn lướt mà chết. Và có hạt rơi vào đất mầu mỡ, nó mọc lên và cho hoa trái gấp trăm".

Khi Ngài kể xong, Ngài còn thêm:

"Hãy nghe cho rõ, tất cả những người có tai để nghe".

Các môn đệ của Ngài hỏi về ý nghĩa của dụ ngôn này. Chúa Giêsu trả lời:

"Các con có thể hiểu được mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn đối với các người khác chỉ là các dụ ngôn, như có lời rằng, họ có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu (Is 6,9)

Đây là ý nghĩa của dụ ngôn: hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi trên vệ đường là những người nghe lời Chúa nhưng rồi ma quỉ đến và lấy đi khỏi lòng họ kẻo họ tin và được Chúa cứu chữa. Những hạt rơi trên đá là người ban đầu nghe và vui mừng đón nhận lời Chúa, nhưng không ăn rể sâu, họ tin trong một thời gian và rồi khi gặp thử thách, họ bỏ ngay. Còn về phần những hạt rơi trong bụi gai, là những người có nghe nhưng trên đường đi các lo toan và tiền của bóp nghẹt và không lớn lên được. Còn về những hạt rơi trên đất tốt, là những người có tâm hồn quảng đại và tinh tế; nghe lời Chúa thì ghi giữ lại và mang hoa trái nhờ sự trung kiên của họ".

(Lc 8,4-15)

Hai dụ ngôn kế tiếp nói về cách thức Chúa Giêsu dậy các môn đệ đường lối cư xử với kẻ khác. Qua dụ ngôn Người Samaritanô tốt lành, Chúa Giêsu trả lời câu hỏi: ai là người cạnh tôi? Ngài kể ra gương cư xử của người Samaritanô bị người Do Thái khinh chê và gớm ghét như là những người ly giáo. Bất cứ người nào cần đến tôi, đó là người thân cận, không kể đến tôn giáo, chủng tộc, bậc thang xã hội của họ.

Dụ ngôn thứ hai cho chúng ta biết trách nhiệm xã hội của người giầu. Một người giầu có, đối với Thiên Chúa là người chia xẻ của cải với các người khác.

Có một luật gia đứng lên và hỏi Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài:

"Thưa Thầy, tôi phải làm cái gì để được hưởng sự sống đời đời?"

Chúa Giêsu trả lời ông:

"Trong luật lệ có chép như thế nào? Ông đọc thấy gì?"

Ông ta đáp:

"Con phải yêu mến Chúa, là Thiên Chúa của con với hết tâm hồn, hết sức lực và hết tâm trí và yêu người bên cạnh như chính mình vậy".

Chúa Giêsu đáp:

"Ông hãy làm như vậy và sẽ có sự sống".

Nhưng người đó muốn phô trương nên nói:

"Vậy ai là người bên cạnh của tôi?"

Chúa Giêsu đáp:

"Có một người trên đường từ Giêrusalem đến Giêricô bị rơi vào tay những người trộm cướp. Họ lấy tất cả những gì ông có, đánh đập ông rồi bỏ đi để ông nửa sống nửa chết. Một thầy tư tế cũng đi trên con đường ấy, nhìn thấy ông, đi tránh sang phía bên kia. Một thầy thuộc dòng họ Lêvi đi tới nơi cũng làm như vậy. Nhưng một người Samaritanô nhìn thấy ông và động lòng thương. Người này đến gần bên ông và băng bó các vết thương, xức dầu và đổ rượu vào các vết thương. Sau đó người này vác ông lên vai và đưa tới quán trọ để săn sóc. Ngày hôm sau, người này lấy ra hai đồng tiền đưa cho người chủ quán và nói: "Xin ông săn sóc cho nạn nhân và khi trở về tôi sẽ thanh toán số tiền còn thiếu ông đã bỏ ra".

Theo ý ông, ai trong những người này tỏ ra mình là người bên cạnh của người rơi vào tay bọn trộm cướp?"

Người thông luật trả lời:

"Thưa đó là người đã tỏ lòng thương ông ta".

Chúa Giêsu nói:

"Hãy về và làm như vậy".

(Lc 10,25-37)

Chúa Giêsu nói:

"Các ngươi hãy coi chừng tính hà tiện. Cuộc sống con người không tùy thuộc những gì mình có".

Rồi Ngài lại nói với họ một dụ ngôn:

"Ngày kia có một người giầu có sau khi được vụ mùa lớn liền nghĩ: "ta phải làm gì bây giờ? Tôi không còn đủ chỗ để chứa hoa mầu". Thế rồi ông ta lại nghĩ: "Tôi sẽ phá cái kho đó đi và xây cái lớn hơn và chứa các lúa gạo, của cải trong đó. Hãy ung dung, ăn uống và vui chơi". Nhưng Thiên Chúa nói với ông ta: "Thật ngu dại, đêm nay ngươi không còn sống nữa, thì các cái ngươi tích trữ thuộc về ai?" Điều này cũng xảy đến cho người tích trữ của cải cho mình thay vì làm giầu có trước mắt Thiên Chúa".

(Lc 12,5-21)

Phần đông những người Do Thái không đón nhận sứ điệp về nước Thiên Chúa, và đó là kinh nghiệm đau buồn của Chúa Giêsu và giáo hội sơ khai. Tuy nhiên điều đó không phải là trở ngại cho ý định của Thiên Chúa: là muốn cứu chuộc mọi người.

Dụ ngôn về các khách được mời và bữa tiệc lớn là một sứ điệp hy vọng. Nó nhắc nhở rằng Thiên Chúa có những cách thức bất ngờ khác để hoàn thành chương trình của Ngài. Rốt cuộc phòng tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ đầy người.

Một trong những người khách nói với Chúa:

"Hạnh phúc thay người nào được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa".

Chúa Giêsu đáp:

"Có một người mở tiệc và mời một số đông người đến dự. Khi tới giờ ăn tiệc, ông sai đầy tớ đi gọi những người được mời "Các vị có thể vào bàn, mọi sự đã sẵn". Nhưng tất cả đều tìm lý lẽ để xin kiếu. Người đầu tiên nói: "tôi mới mua một miếng đất và phải đi xem, xin cho tôi kiếu lỗi". Người thứ hai lại nói: "Tôi mới mua năm cặp bò và phải đi xem lại, xin lỗi đành phải kiếu". Một người khác nói: "tôi mới lập gia đình nên không thể đến được". Người đầy tớ đi về và trình lại cho ông chủ. Thế là ông chủ nổi giận nói với đầy tớ: "hãy mau ra ngoài đường phố và mời tất cả những người nghèo khó, bệnh tật, người què quặt và đui mù vào. Người đầy tớ nói "Thưa ông, lệnh truyền của ông đã được thi hành, nhưng vẫn còn chỗ trống". Rồi ông chủ bảo: "Hãy đi đến các nẻo đường và nài kéo người ta đến, làm sao cho nhà đầy hết. Bởi vì ta nói với ngươi, không một người nào đã được mời sẽ nếm được mùi bữa tiệc của ta".

(Lc 14,15-24)

Ba dụ ngôn sau đây bàn về việc trở lại của kẻ lầm đường lạc lối. Chúa Giêsu trả lời các đối thủ khi họ tố cáo Ngài sống trà trộn với các người tội lỗi và ngồi đồng bàn với họ. Chúa Giêsu bác bỏ lời chỉ trích này bởi vì Thiên Chúa hành động như người chăn chiên đi tìm chiên lạc, như người đàn bà tìm đồng bạc đánh mất và như người cha mõi mòn đợi con. Những người chỉ trích Ngài không được theo gương nguời anh cả trong dụ ngôn "người con phung phá". Họ cũng được mời vào dự tiệc và vui mừng vì cuộc hội ngộ này.

Những người thu thuế và tội lỗi thường tìm đến với Chúa Giêsu để nghe các điều người nói. Những người Pharisêu và ký lục chê trách và nói: "người này đón tiếp những người tội lỗi và ăn chung với chúng".

Vì thế mà Chúa nói với họ dụ ngôn này:

"Có người nào trong các ông có một trăm con chiên mà lạc mất một, sẽ không bỏ chín mươi chín con trong đồng cỏ và đi tìm con chiên lạc cho tới khi tìm thấy? Rồi khi đã tìm thấy, ông ta vui mừng vác trên vai. Trở về nhà, ông mời bạn bè và người láng giềng, và nói: "Hãy vui cùng tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên bị lạc mất". Cũng vậy, tôi nói với các ông rằng trên trời sẽ còn vui mừng hơn vì một người tội lỗi thống hối hơn là chín mươi chín người đạo đức không cần phải thống hối".

(Lc 15,1-7)

"Nếu một người đàn bà có mười đồng bạc và mất một, bà sẽ thắp đèn lên, lau quét nhà và tìm cho được mới thôi và khi đã tìm thấy bà ta lại chẳng gọi bạn bè, hàng xóm đến và nói với họ: "Hãy chia vui với tôi, tôi đã tìm thấy đồng tiền lạc mất".

(Lc 15,8-10)

Và Chúa Giêsu nói tiếp:

"Một người kia có hai đứa con. Đứa con thứ hai thưa với cha: "Thưa cha, xin cha chia cho con phần gia tài". Vì thế người cha chia tài sản cho hai người. Ít ngày sau, cậu trẻ thu góp mọi của cải đi miền xa. Cậu phung phí tiền bạc sống hoang đàng. Khi cậu đã xài hết tiền, miền ấy lại trải qua một cơn đói khủng khiếp và cậu sống cơ cực vì không còn đồng tiền nào nữa. Cậu tự đi xin việc làm và làm trong một nông trại, chi heo ăn. Cậu ước ao được ăn đồ ăn heo đang ăn, nhưng chẳng ai cho. Vì thế cậu hồi tâm lại và nói: "Bao nhiêu tôi tớ làm công trong nhà cha tôi có dư thừa thức ăn, còn tôi ở đây đang sắp chết vì đói. Tôi sẽ bỏ nơi này và về nhà cha tôi và thưa: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha. Con không đáng gọi là con cha nữa, hãy đối xử với con như một người tôi tớ". Nghĩ rồi cậu ta bỏ nơi đó và về nhà cha mình.

Khi cậu ta còn ở xa xa, cha cậu đã nhìn thấy và động lòng thương. Cha cậu chạy tới và hôn cậu âu yếm. Lúc ấy, người con thưa: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không còn đáng gọi là con cha nữa". Nhưng người cha đã ra lệnh cho các tôi tớ: "Hãy mau, đem ra đây áo tốt nhất và mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu và đôi dép vào chân cậu. Hãy mang một con bê béo và giết đi để mở tiệc mừng vì con ta chết nay đã sống lại, lạc mất nay đã tìm thấy". Và tiệc mừng bắt đầu.

Cậu con trai cả vắng mặt, ở ngoài ruộng. Trên đường về nhà anh nghe thấy tiếng đàn hát và nhảy múa. Anh gọi một người tôi tớ đến và hỏi mọi sự. Người tôi tớ nói: "Em cậu đã trở về, và cha cậu truyền giết con bê chúng ta đã nuôi béo vì em cậu đã về an toàn và khỏe mạnh". Cậu anh cả nổi giận và không chịu bước vào nhà, nên người cha phải ra để nài nỉ cậu; cậu nói với cha: "Con đã tận tụy phục vụ cha và không bao giờ trái lệnh cha. Thế mà cha chưa bao giờ cho con dù chỉ con bê non để vui vẻ với các bạn hữu. Còn bây giờ, đứa con kia của cha đã tiêu tán gia tài của cha, trở về và cha giết một con bê đã nuôi béo". Nhưng người cha nói: "Này con, con ở với cha luôn và mọi cái của cha là của con. Nhưng chúng ta phải mừng vui vì em con đã chết nay sống lại, đã lạc mất nay tìm thấy".

(Lc 15,11-32)

Matthêu làm nổi bật cũng một sứ điệp ấy bằng một dụ ngôn khác. Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của con người. Ngài không theo định luật quân bình giữa phục vụ và thưởng công như công lý của thế gian. Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng và ý định của mỗi người. Ngài không phĩnh gạt ai và ban thưởng một cách công minh. Nhưng vượt lên các lề luật và phương cách suy nghĩ của chúng ta. Vì thế dụ ngôn những người thợ vào giờ cuối đã gây khó chịu cho người đương thời với Chúa Giêsu, và còn tiếp tục gây thắc mắc cho ta ngày nay.

"Nước Trời giống như chủ ruộng kia đi thuê người làm công cho vườn nho mình. Sau khi đã thỏa thuận với các người làm tiền lương một đồng một ngày, ông đưa họ đến vườn nho. Sau đó, ông lại ra khu chợ và nhìn thấy nhiều người khác đứng không. Ông liền bảo họ: "Các anh hãy đến vườn nho của tôi và tôi sẽ trả tiền công đích đáng". Và họ cũng đã đến vườn nho làm việc. Đến trưa và chiều, ông chủ cũng ra đi và thuê thợ như vậy. Gần chiều, ông lại đi ra và gặp thấy còn nhiều người nữa đứng đó. Ông hỏi họ: "Tại sao các anh đứng nhàn rỗi suốt ngày vậy?" Họ trả lời: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông nói với họ: "Các ông hãy đến vườn nho của tôi".

Đến chiều tối, ông chủ vườn nho bảo người cai thợ: "Anh hãy gọi những người làm công lại và trả lương cho họ, bắt đầu từ những người đến sau cùng rồi sau mới là người tới trước nhất. Thế là người được thuê lúc sau trưa mỗi người nhận được một đồng, và những người đến trước nhất trông chờ được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ nhận được có một đồng mà thôi. Họ nhận nhưng cằn nhằn với ông chủ và nói: "Những người khác họ chỉ làm có một giờ mà ông đãi ngộ họ như chúng tôi mặc dầu chúng tôi đã làm công việc nặng nhọc dưới sức nắng gắt!" Nhưng ông chủ trả lời cho một người trong họ: "Này bạn, tôi không có bất công với bạn, nào chúng ta đã chẳng thỏa thuận một đồng sao? Hãy cầm lấy tiền công và đi về. Tôi có thể trả cho người tới trể nhất như đã trả cho anh. Tôi không được tự do dùng tiền của theo ý tôi muốn hay sao? tại sao bạn lại ghen tức vì tôi rộng rãi?" Như vậy, người sau rốt sẽ trở thành trước hết và người trước hết sẽ trở thành rốt bét".

(Mt 20,1-16)

Sứ điệp của Chúa Giêsu về tình yêu thương bao la của Thiên Chúa có thể gây hiểu lầm cho rằng con người không cần phải cố gắng gì. Dụ ngôn những nén bạc làm sáng tỏ rằng những ân huệ của Thiên Chúa có những đòi hỏi tương ứng. Người nào nhận được nhiều, những người được cảm nghiệm tình yêu thương của Thiên Chúa, phải chia sẻ tình yêu thương này và phải nỗ lực làm việc cho Nước Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta đều phải trả lời về những ân huệ và tài năng do Thiên Chúa ban. Trong ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ không hỏi về những lời nói hay chương trình, Ngài sẽ hỏi về những hành động cụ thể. Ngài sẽ phán xét chúng ta dựa trên cách cư xử của chúng ta đối với người khác, đặc biệt và với những người túng thiếu.

Chúa Giêsu không cho là một tình yêu Thiên Chúa đích thực nếu không có tình yêu cho nhân loại. Trong dụ ngôn về sự phán xét Thiên Chúa đồng hóa chính mình với những người túng thiếu.

"Nước Thiên Chúa giống như một người đi du lịch, gọi các người đầy tớ đến và trao tài sản cho họ. Người thì ông giao năm nén, người kia hai nén, người khác một nén tùy theo khả năng của họ. Thế rồi ông lên đường. Người đã nhận năm nén dùng nó buôn bán sinh lợi được năm nén; người nhận hai nén cũng sinh lợi được hai nén như vậy. Nhưng người nhận được một nén, đào lỗ dưới đất chôn giấu tiền của ông chủ. Một thời gian lâu sau, ông chủ trở về tính sổ với các đầy tớ. Người nhận được năm ra trước với năm nén thêm khác. Ông nói: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén và đây tôi có thêm năm nén khác". Ông chủ nói: "Hãy đến và chia phần hạnh phúc của chủ ngươi". Người nhận hai nén cũng làm như vậy và nói: "Ông trao cho tôi hai nén, đây là hai nén thêm khác". Ông chủ nói với người này: "Anh làm rất tốt, hỡi người tớ trung thành, anh chứng tỏ anh có thể trung thành trong những việc nhỏ, tôi sẽ tin anh nhiều hơn, hãy đến và chia phần hạnh phúc của chủ ngươi". Sau cùng người nhận một được một nén bước ra nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người khó tính, ông gặt nơi không gieo và thu lượm nơi không tung vãi, vì thế tôi sợ hãi và cất giấu nén bạc dưới đất. Nó đây, nó là của ông, xin ông lấy lại". Nhưng ông chủ đáp lại: "Đầy tớ xấu xa lười biếng, anh đã biết rằng tôi gặt nơi không gieo và thu lượm nơi không tung vãi. Nếu vậy anh phải ký thác tiền tôi cho nhà băng và khi tôi trở về tôi có thể lấy lại được vốn với tiền lời. Hãy lấy nén bạc kia và cho người đã có muời nén. Đối với người đã có, sẽ được cho thêm, và còn được nhiều thêm hơn là cần thiết; nhưng người đã không có, thì ngay cả cái anh có cũng bị lấy mất. Còn tên đầy tớ vô dụng này hãy ném vào nơi tối tăm: ở đó sẽ khóc lóc và không còn hy vọng".

(Mt 25,14-30)

"Khi con người đến trong vinh quang, có các thiên thần hộ tống, Ngài sẽ ngồi trên ngai như một vị vua khải hoàn. Tất cả các nước sẽ tụ họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra như người chăn chiên tách biệt các con chiên khỏi con dê. Và Ngài sẽ sắp chiên ở bên phải, dê ở bên trái. Rồi ông vua sẽ nói với những người bên phải: "Hãy đến, các ngươi được Cha Ta chúc phúc; hãy đến và chiếm hữu vương quốc đã chuẩn bị cho các ngươi từ thuở tạo lập thế giới. Bởi vì Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn. Ta khát các ngươi cho Ta uống. Ta là người ngoại quốc các ngươi đã đón tiếp Ta, Ta trần truồng các ngươi đã cho Ta mặc, Ta ốm đau các ngươi đã chữa trị, Ta ở trong tù và các ngươi đã viếng thăm Ta".

Bấy giờ người công chính sẽ đáp lại: "Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi đã thấy Chúa đói và cho Chúa ăn? hoặc Chúa khát và cho Chúa uống? có khi nào chúng tôi đã thấy Chúa là người ngoại quốc và đón tiếp Chúa, trần truồng và cho Chúa mặc, ốm đau hoặc trong tù mà đến viếng thăm?" Và nhà vua sẽ trả lời: "Ta nói thật rằng bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những người anh em của các ngươi là làm cho Ta". Kế tiếp vua nói với những người ở bên trái: "Hãy đi cho khỏi Ta, hỡi kẻ đáng bị nguyền rủa, tới lò lửa vĩnh viễn đã được sửa soạn cho ma quỉ và các thần xấu. Bởi vì Ta đói các ngươi không hề cho Ta ăn, Ta khát các ngươi chẳng cho gì uống, Ta là người ngoại quốc và các ngươi chẳng đón tiếp, Ta trần trụi và các ngươi không cho mặc, Ta ốm đau và ở tù các ngươi không hề viếng thăm Ta". Rồi họ cũng hỏi lại: "Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói hoặc khát, ngoại quốc hoặc trần trụi, ốm đau hoặc bị tù đầy, mà chúng tôi không đến cứu giúp?" Ngài sẽ trả lời: "Ta bảo thật, bất cứ khi nào các người chểnh mảng làm điều này cho một người thấp kém nhất, tức là các ngươi đã chểnh mảng làm cho Ta".

Và họ sẽ đi chịu hình phạt vĩnh viễn, còn người công chính hưởng sự sống đời đời".

(Mt 25,31-46)

 

  CỰU ƯỚC

*     Dẫn nhập

1. Lạy Chúa là Thượng Đế, Ngài thật là cao cả

2. Lạy Chúa, Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân Chúa

3. Ta sẽ làm cho con thành một dân tộc lớn

4. Thiên Chúa ở với Giuse

5. Ta sẽ đưa các con ra khỏi Ai Cập

6. Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi

7. Ta sẽ kết một giao ước với các ngươi

8. Ta sẽ ban cho các ngươi một xứ sở

9. Chúa cai trị

10. Hãy tìm kiếm Ta và các ngươi sẽ được sống

TÂN ƯỚC

*     Dẫn nhập

1b. Đấng Cứu Thế sinh ra cho các bạn

2b. Con là Con yêu dấu của Ta

3b. Danh tiếng Ngài đồn ra khắp vùng

4b. Các dụ ngôn

5b. Người này là ai vậy?

6b. Ngài quyết định lên đường về Giêrusalem

7b. Đức Kitô chẳng phải chịu những đau khổ này sao?

8b. Các con sẽ là nhân chứng của Ta.