LỄ CHÚA THĂNG THIÊN 2015
Chúa về trời. Nghĩa là từ nay, Chúa được tôn vinh ở cõi vĩnh phúc. Đó là tình
trạng tốt lành, tình trạng viên mãn của sự sống thường hằng, bất biến, sự sống
tuyệt đối hạnh phúc, một sự sống chỉ tồn tại nơi chính Thiên Chúa. Để diễn tả sự
trở về hạnh phúc vô biên của Chúa Kitô qua cách nói đơn sơ “Chúa về trời”, Hội
Thánh tuyên xưng:
“Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”
(Bản Tuyên tín).
Thánh Phaolô khi ca ngợi sự được vinh thăng trên trời của Chúa Kitô, cũng cho
hay:
“Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu trên hết mọi danh
hiệu, để khi nghe danh thánh Giêsu, trên trời, dưới đất và nơi âm phủ, mọi đầu
gối phải quì xuống và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Đức Giêsu Kitô là Chúa”
(Phil 2:9-11).
Cùng một ý hướng ca ngợi việc được tôn vinh của Chúa Kitô, bài đọc hai của lễ
Thăng Thiên cho biết: Chúa Kitô
"vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần và quản thần, vượt
trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này, lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy
phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Người,
và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người"
(Eph 1, 21- 23).
Chúa về trời. Từ nay Chúa không trực tiếp hoạt động, nhưng trao cho các tông đồ,
cho Hội Thánh và mỗi chúng ta tiếp tục sứ mạng đem ơn cứu độ của Người cho muôn
dân.
Chúa muốn chúng ta, qua mọi thế hệ, làm chứng cho tin mừng Phục sinh của Chúa.
Cả ba thánh sử của Tin Mừng Nhất lãm đều thuật lại lời tâm huyết của Chúa Giêsu
ngay trước lúc Chúa vinh thăng:
“Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền
cho anh em”
(Mt 28, 19-20). Hoặc:
“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”
(Mc 16:15). Hoặc:
“phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu
gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều
này”
(Lc 24, 47-48).
Chúa đã về trời. Nhưng ta không được phép chỉ hướng về trời mà quên trần thế.
Đúng hơn, Lòng ta phải được thôi thúc hướng về hạnh phúc của Chúa cũng là hạnh
phúc đời đời của ta. Ta không được phép quên “ái mộ những sự trên trời” (Suy
ngắm thứ hai của mầu nhiệm Mừng). Bởi Chúa về trời là để thôi thúc niềm hy vọng
được về trời của ta.
Tuy nhiên, Công vụ Tông đồ thuật lại, sau khi Chúa rời đi, đang lúc các môn đệ
“đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”,
thì thiên thần nhắc:
“Hỡi người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?”.
Người môn đệ Chúa Kitô không có quyền chỉ nhìn trời mà quên xây dựng cuộc đời
này. Lời thiên thần nhắc các môn đệ xưa, cũng là nói với chúng ta: Chúng ta còn
có nhiệm vụ trên trần thế. Chúa muốn chúng ta xây dựng Nước Trời trong thực tại
của thế giới này.
Câu chuyện về nữ tu Mai Thị Mậu (đã từng được nhà nước Việt Nam phong tặng Anh
hùng lao động), xả thân phục vụ bệnh nhân phong ở trại phong Di Linh, Lâm Đồng
từ năm 1972 đến nay, là bằng chứng giúp hiểu thế nào là nhiệm vụ xây dựng quê
hương hôm nay, đang khi tiến về quê hương vĩnh cửu. Sau đây là trích đoạn bài
viết của Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh về chị Mai Thị Mậu, đăng trên trang
conggiaovietnam.net:
“Qua ánh mắt và thái độ cho thấy chị mến thương tất cả mọi nạn nhân và bệnh
nhân. Chị biết tên hết mọi người và từng người chị phục vụ như con cái. 95% nạn
nhân ở đây thuộc dân tộc K’Ho và Nùng, nên họ gọi chị là Mơi Mậu (tức là Mẹ
Mậu). Trong tổng số 219 người, một số là con cái của họ, và trong số những người
con ấy, chị đã nuôi cho ăn học thành 3 bác sĩ và 2 kỹ sư, đang phục vụ cho trại
cùi này…
…Người nữ tu này đã tâm sự rằng: “Làm sao tôi bỏ đi đâu được, khi họ luôn luôn
chờ tôi. Cũng giống như nếu tôi lấy chồng thì trại phong này chính là gia đình
chồng tôi vậy. Tôi đã thuộc về nơi ấy!”
Phải, chính vì người nữ tu này đã nhận nơi này làm nhà chồng của mình, và có lẽ
chính vì những người anh chị em xấu số được chị phục vụ đã chẳng những trở thành
nguyên cớ để chị đã đến không thể bỏ đi, mà còn là động lực để chị hăng say phục
vụ hơn nữa, như chị đã tâm sự như sau: “Tôi học được ở chính những bệnh nhân của
tôi tinh thần biết chấp nhận số phận một cách bình thản, không kêu ca oán
thán…”.
…Nữ tu Mai Thị Mậu đã nỗ lực mở mang cho rộng lớn hơn rất nhiều những công trình
do vị sáng lập của chị đã gầy dựng từ ban đầu. Thật vậy, chị cho biết:
“Năm 1972, tôi tình cờ có dịp chăm sóc cho một bác sĩ người Pháp ở Lâm Đồng bị
bệnh nặng. Sau khi giúp ông khỏi bệnh, để trả ơn, ông hỏi tôi muốn gì? Khi biết
ông có rất nhiều đất ở vùng này, tôi liền xin mua một miếng đất để sau này giúp
cho con cháu người cùi tự lực làm ăn sinh sống. Vị bác sĩ đồng ý ngay và để cho
tôi một vạt rừng rộng 53 mẫu, với giá chỉ tròm trèm 15 cây vàng. Tôi tìm mọi
cách chắt mót để có được số tiền ấy mua đất”…
… Từ đó, các con em thuộc trại phong Di Linh được chuyển đến đây, cách 12 cây
số, ở xã Gia Hiệp để sinh sống biệt lập. Thật là một chuyện hình như chưa hề xẩy
ra trong lịch sử các trại phong cùi. Các em dù có gia đình hay chưa, đều được
hướng dẫn trồng trọt và chăn nuôi, trong vòng 5 năm, rồi sau đó sống tự lập.
Cách đây mấy năm đã có 30 hộ gia đình tự lập, với 4 sào đất được cấp cho và một
căn nhà trị giá 12 triệu đồng Việt Nam (tương đương với trên 700 Mỹ kim). Trẻ em
trong trại đều được đi học...”
(http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=3&ia=13416).
Không phải ai cũng có thể làm được điều mà nữ tu Mai Thị Mậu đã và đang làm. Mỗi
người có khả năng riêng tùy theo Chúa ban. Nhưng tấm gương của chị và của nhiều
anh chị em xả thân sống đức ái, là động lực thôi thúc, là lời mời gọi thực tiễn,
gần gũi giúp ta sẵn sàng hiến dâng khả năng, thời gian, công sức, của cải… để
xây dựng Nước Trời nơi trần thế.
Không thực thi tình yêu, lòng quản đại hôm nay, ta sẽ chẳng có hy vọng hưởng
tình yêu của Chúa ngày mai. Không có Nước Trời ngày mai, nếu hôm nay ta không lo
xây dựng. Hãy đứng lên, hãy ra đi, làm cho cuộc đời nhỏ bé của chính mình sinh
lợi ích. Hãy xây dựng thiên đàng bằng cuộc sống thường nhật, để thiên đàng mai
ngày, sẽ không xa, nhưng luôn trong vòng ta của bản thân.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH