.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Giới Thiệu

Đôi Dòng Về Tác Giả

1. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời tôi

2. Ánh sáng chói loà của Thánh Kinh

3. Nhận hiểu ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của ơn gọi Linh Mục

4. Chức Linh Mục trong buổi ban đầu

5. Khuôn mặt người Linh Mục qua giòng lịch sử

6. Chức Linh Mục và đời sống chủng viện theo mẫu thức TRIĐENTINÔ

7. Những vấn nạn xung quanh vấn đề độc thân

8. Khuôn mặt Linh Mục thời công đồng và sau công đồng

9. Dự đoán tương lai của ơn gọi Linh Mục

10. Những con vật trên tàu NÔ-E hôm nay

11. Này tôi là nữ tì của Đức Chúa!

lời nguyện đúc kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Giáo Hội cần loại Linh Mục nào?
Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức
Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
3. NHẬN HIỂU Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH SÂU XA HƠN CỦA ƠN GỌI LINH MỤC

Tiếng gọi đặc biệt dành cho Matthêu (Lêvi) là một ví dụ hùng hồn về ơn gọi nhưng không đối với giáo dân cũng như giáo sĩ. Khi Đức Giêsu đi ngang qua, Ngài trông thấy một người đàn ông tên là Matthêu đang ngồi ở bàn thu thuế; và Ngài nói với ông: “Hãy theo Ta”. Và ông đứng dậy đi theo Ngài. Và khi Đức Giêsu ngồi dùng bữa tối trong nhà, nhiều người thu thuế và những kẻ tội lỗi cùng dùng bữa với Ngài và các môn đệ Ngài (Mt 9,9-10).

tiếng gọi dành cho Lêvi

và bữa ăn Messianic

Lêvi là một thiên tài tôn giáo thực sự ở chỗ ông nhận ra và diễn tả tính nhưng không này một cách sáng tạo ngay từ đầu: “Nếu Thầy mời tôi, một kẻ xấu, một tên thu thuế bị khinh bỉ, lẽ nào Ngài không tiếp đón các bạn cũ của tôi nhỉ?” Cùng ngày hôm ấy, Lêvi dọn bữa cho Đức Giêsu và cho các bạn hữu của ông. Lêvi có nhận ra rằng hành động ấy của ông là biểu tượng của bữa ăn Messianic và của tính mới mẻ của Nước Trời không? Đối với chúng ta, hành động ấy của Lêvi là một diễn tả rất thuyết phục về ý nghĩa ơn gọi của chính chúng ta.

Lòng hiếu khách của Lêvi, đã phá đổ các rào chắn của con người và tất cả những thói trịch thượng ngạo mạn, đã không tránh được sự dòm ngó của những người Pharisêu. Nhóm Pharisêu hỏi các môn đệ Đức Giêsu: “Tại sao Thầy của các anh ăn uống cùng với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi? “ (Mt 9,11). Cũng vậy, cả lịch sử câu chuyện chúng ta được chấp nhận cách ưu biệt vào kết hợp với Thánh Thể được chứng minh trong câu hỏi của những người Pharisêu, một câu hỏi phát xuất từ thái độ loại trừ. Cốt lõi của lòng thương xót và của tình yêu đầy sức chữa trị của Đức Giêsu trong bối cảnh này được tóm kết trong câu trả lời đầy thách đố của Ngài: “Những người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người đau yếu mới cần. Hãy đi và học biết điều này: ‘Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ’. Vì Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính nhưng là những tội nhân” (Mt 9,12-13).

Có lẽ thời nào cũng có một tầng lớp linh mục nào đó không học biết được và không thể hiện được nhãn quan căn bản về tình thương và lòng khiêm nhường đầy sức chữa trị của Đức Giêsu, thay vào đó, các vị linh mục ấy sẽ cổ xúy một cái nhìn sai lạc về “hy lễ”. Tuy nhiên, cũng như Mátthêu, các linh mục đích thực không thể tìm thấy hạnh phúc chân thực trong việc bước theo Đức Giêsu nơi sự phân loại và loại trừ bất cứ ai ra khỏi bữa ăn Messianic với luận cứ rằng: “Họ ở trong tình trạng tội trọng một cách khách quan”.

Về vấn đề này, cũng như trong các vấn đề khác, những ai sống một đời sống đạo đích thực sẽ không giấu được nỗi thảng thốt, niềm thích thú và một cảm nhận bên trong về tấm lòng nhân hậu tuyệt vời của Đức Kitô, tấm lòng ấy giúp họ có thể bẻ gãy mọi rào chắn của con người chống lại thói tự cho mình là công chính. Dĩ nhiên, những phẩm chất này cũng bao gồm một khả năng biện phân Kitô giáo rành mạch tiên vàn giúp cho tất cả chúng ta là những linh mục biết cảnh giác đừng loại chính mình ra khỏi niềm vui của bữa ăn Messianic do bởi nhãn quan tự cho mình là công chính và thiếu vắng một tấm lòng. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ hay nói điều gì có tính qui kết người khác là tội nhân trước khi thú nhận rằng cả chúng ta nữa cũng là những tội nhân đáng thương. Trong bối cảnh này, chúng ta tự hỏi các linh mục có nên luôn luôn cố trao ấn tượng rằng mình là những con người thánh thiện hay ít nhất mình là những con người không có gì sai quấy? Rõ ràng câu hỏi ấy cần được trả lời sáng tỏ.

Nhà văn nữ Ba Lan Mary Winowska kể câu chuyện sau đây về một cha sở. Trước mắt tất cả giáo dân trong xứ, vị linh mục này là một mục tử tốt lành thánh thiện tuyệt vời. Dường như không ai có thể chê ngài về bất cứ điều gì cả. Ngày nọ, một công an chìm của Gestapo đến gặp ngài, tự giới thiệu, và đưa ra với ngài một đề nghị bất ngờ: “Chúng tôi tin rằng ông sẵn lòng hợp tác với chúng tôi bằng cách đều đặn cung cấp cho chúng tôi những thông tin trong nội bộ Giáo Hội. Công việc này không ai có thể làm tốt hơn ông, vì ông rất được tín nhiệm bởi các giám mục và các linh mục khác.” Cha sở trả lời không do dự: “Không được. Chúa không cho phép tôi làm điều đó!” Viên công an chìm rút trong túi ra một tấm ảnh, chìa cho cha sở xem. Đó là ảnh một phụ nữ đang ẵm đứa con nhỏ trên tay. Anh ta nhìn thẳng vào mắt vị linh mục, hỏi gằn từng tiếng: “Ông không phải là cha của đứa trẻ này đấy chứ?”

Hoàn toàn bất ngờ trước tang chứng ấy, vị linh mục trầm ngâm giây lát, rồi xin viên công an cho mình có thêm thời gian để suy nghĩ về đề nghị trên kia của anh ta: “Anh cho phép tôi khất đến Chúa Nhật tới.”

Chúa Nhật tuần ấy, mọi người tề tựu đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ như thường lệ. Và một sự kiện hết sức bất ngờ đã xảy ra. Vào đầu Thánh Lễ, thay vì đọc Kinh Cáo Mình theo nghi thức thông thường, vị linh mục xưng thú tất cả những tội lỗi của mình trước mặt toàn thể cộng đoàn giáo dân, kể cả những tội mà Gestapo không hề biết. Trà trộn giữa các tín hữu trong nhà thờ hôm ấy, có hai viên công an chìm của Gestapo. Trong nước mắt, vị linh mục xin cộng đoàn giáo dân tha thứ cho mình và cho phép mình xin chuyển đi nơi khác để đền tội. Sau một thoáng im bặt, cả nhà thờ bắt đầu xôn xao lên. Mọi người đều sa lệ vì cảm kích. Họ nhất tề la lên: “Xin cha đừng đi đâu cả, xin cha tiếp tục ở lại săn sóc chúng con. Chúng con vốn kính mến cha, hôm nay chúng con càng kính mến cha và cảm thấy cha gần gũi hơn bao giờ!” Nhờ sự thú nhận công khai của mình, vị linh mục nói trên, qua tình trạng tội lỗi của ông, đã tỏ ra ông là “một người trong chúng ta” với các giáo dân của ông.

Để trả lời cho câu hỏi căn cơ trên kia, rõ ràng người linh mục phải hiểu rõ mình được gọi sống thánh thiện tới mức trở thành một nguồn khích lệ cho mọi người trên con đường tiến tới sự hoàn thiện Kitô giáo. Tuy nhiên, bất cứ sự ngụy tạo nào của sự thánh thiện cũng sẽ là một mô ụ gây cản trở cho nỗ lực trên. Linh mục nào không thể nhận ra rằng mình cũng sống nhờ vào sự thứ tha của Chúa và rằng mình cũng sai lầm thì linh mục ấy sẽ không thể nhận được một sự tín nhiệm nào cả.

Sẽ thật có ý nghĩa việc chúng ta chọn Lêvi Matthêu như một vị quan thầy. Làm thế, chúng ta có thể trở nên những linh mục có hiệu năng nhiều hơn, trong chừng mực chúng ta sẵn sàng hơn để mời những kẻ bên ngoài bước vào bàn ăn Messianic của Đức Giêsu; và làm thế, chúng ta sẽ thấy mình được đón nhận niềm nở hơn bởi chính Đức Giêsu. Cũng như Lêvi, chúng ta cần nhận hiểu sâu xa hơn và hiện thực hóa lời của Đức Giêsu: “Ta không đến để xét xử nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 12,47).

Càng khiêm tốn ca ngợi tình yêu chữa trị của Thiên Chúa đối với mọi con người, chúng ta càng có thể – nhờ ân sủng Thiên Chúa - trở thành những “thầy thuốc bị thương” đầy hiệu năng. Rõ ràng, các linh mục không bao giờ được phép coi bất cứ ai thuộc trách nhiệm săn sóc của mình là “hết thuốc chữa”. Mọi cảm quan và hoạt động mục vụ của chúng ta phải được thấm nhuần bởi ý thức ngày càng hơn về tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa, một tình yêu vô hạn và chúng ta chỉ là những kẻ bất xứng - ngay cả khi chúng ta cảm nghiệm về sự thiếu thốn của mình. Tất cả những gì chúng ta có thể làm chỉ là tiếp tục sẵn sàng để cho tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa hành động và, khi nhìn nhận tấm lòng ấy, chúng ta thể hiện sự quảng đại của Thiên Chúa trong thái độ mục vụ của chúng ta, trong việc khích lệ người khác một cách không mệt mỏi. Chúng ta hãy để cho Lêvi hướng dẫn mình!

việc rửa chân

tại Bữa Tiệc Ly

Biến cố phép rửa của Đức Giêsu ở sông Giođan và việc Ngài rửa chân cho các tông đồ tại Bữa Tiệc Ly là hai sự kiện hoàn thành lẫn nhau. Khi nâng việc rửa chân ấy lên hàng nghi lễ, Đức Giêsu muốn diễn tả phép rửa mà Ngài tự nguyện lãnh nhận trong máu của chính Ngài để thứ tha tội lụy và để cho tình yêu phi bạo lực được khải thắng. Khi chọn làm công việc rửa chân, một công việc thường được gán cho các tôi tớ thấp hèn nhất, Đức Giêsu muốn xác nhận rằng hành động khiêm nhường này – vốn soi sáng cho toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài – phải được coi là chuẩn mực cao nhất, đặc biệt đối với những ai được gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng của Ngài và sứ mạng hiệp nhất tất cả các môn đệ trong tình yêu của Ngài.

Mặc dù Tin Mừng Gioan mang sắc thái nổi bật là một Tin Mừng về Thánh Thể, nó vẫn không đưa ra một trình thuật minh nhiên nào về cơ chế của Thánh Thể. Cũng như nhiều học giả Thánh Kinh khác, tôi xem bản trình thuật rửa chân trong bối cảnh của nó là một trình thuật tuyệt vời về Thánh Thể. Đó là một chìa khóa không thể thiếu để nhận hiểu sâu xa hơn về cả Thánh Thể lẫn chức linh mục.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta mối quan hệ độc đáo của Ngài với Chúa Cha. Hơn nữa, Ngài mạc khải cho chúng ta biết Cha là ai qua nghi thức rửa chân này, qua việc Ngài tự hiến trở thành bánh ban sự sống và, cuối cùng, qua việc Ngài đổ máu trao ban nguồn sống. Gioan đã nhấn mạnh mạc khải này trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô“ (Ga 17,1-3).

Có một số người kiên quyết chống lại việc truyền chức linh mục cho phụ nữ dựa vào giả thuyết rằng không có phụ nữ nào hiện diện tại Bữa Tiệc Ly, và do đó họ kết luận rằng chức linh mục Tân Ước rõ ràng chỉ dành riêng cho nam giới. Có lẽ không có phụ nữ nào hiện diện ở đó, nhưng đó là điều ta chỉ có thể giả đoán thôi. Điều quan trọng hơn, đó là sự kiện rằng phụ nữ có hiện diện với Đức Giêsu, có liên hệ một cách tích cực trong đời sống sứ vụ của Ngài, và phụ nữ tiếp tục liên hệ tích cực như thế bằng những cách thế đầy ý nghĩa và có sắc thái linh mục trong quá trình xây dựng Hội Thánh.

Các phụ nữ không chỉ đi theo Đức Giêsu trong tư cách là những người tôi tớ khiêm nhường, mà họ còn trung thành ở lại dưới chân thập giá khi những người khác đã bỏ đi mất. Người đầu tiên gặp thấy Chúa Phục Sinh vào sáng sớm ngày đầu tuần và loan báo tin mừng đó chính là một phụ nữ. Biến cố này chúng ta chỉ cử hành trong Thánh Lễ một cách xứng đáng khi chúng ta biết từ chối mọi thái độ trịch thượng và biết tự biến mình – cùng với những phụ nữ ấy – trở thành những tôi tớ của Người Tôi Tớ Giavê.

Gioan, người môn đệ được Chúa yêu mến và người bạn trung thành của Phê-rô, đã cho thấy rõ rằng Phê-rô phải khó khăn biết bao để cho phép mình đi vào trong trung tâm của mầu nhiệm Đức Kitô nơi hành động rửa chân. Dĩ nhiên, nghi lễ này chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai không thể đón nhận nó như luật nền tảng của đời sống Kitôhữu và nhất là của sứ vụ tông đồ của người linh mục. Khi Phê-rô hỏi phải chăng Đức Giêsu sắp rửa chân cho ông, Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ anh không hiểu điều Thầy sắp làm, nhưng rồi anh sẽ hiểu.” Bị sốc, Phê-rô nói: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ không được đồng bàn với Thầy” (Ga 13,7-8). Phê-rô chỉ đầu hàng khi nhận được tối hậu thư đó, dù ông không nhận ra tầm mức đầy đủ ý nghĩa của nó đối với mình. Cũng như Phê-rô, chúng ta chỉ ý thức  mơ hồ về ý nghĩa của tối hậu thư nói trên khi chúng ta đang trên hành trình tiến đến một nhận thức hiện sinh trọn vẹn hơn.

Một phần nào đó, nguyên nhân của sự bối rối nơi Phê-rô cũng như nơi những người khác là do bởi hình ảnh sai lệch về Đấng Mêsia vốn rất phổ biến thời ấy. Vào thời của Đức Giêsu, những người anawim, tức những con cái It-ra-en khó nghèo và hèn mọn – như Maria và Giu-se – hát và rao giảng những Bài Ca của Người Tôi Tớ với hết tâm hồn họ. Tuy nhiên, đối lập với niềm hy vọng của những người anawim, nơi giới thượng lưu có tồn tại một ngưỡng vọng về một vị anh hùng dân tộc đầy uy lực sẽ giải phóng It-ra-en khỏi ách thống trị Rôma.

Suy nghĩ về Tin Mừng Maccô, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi đầu tiên nhận thấy rằng trong nhiều trường hợp, Đức Giêsu được mô tả như một Đấng yêu cầu các tông đồ không được tiết lộ Ngài là Mêsia. Maccô có lý do chính đáng để trình bày như thế. Vì Phê-rô và những người theo Đức Kitô bám chặt vào một Mêsia quyền lực, nên dường như vào thời điểm ấy họ không thể tin tưởng rằng Con Người, rằng “một người trong chúng ta” ấy chính là Đấng Mêsia. Chỉ khi các tông đồ trở nên hoàn toàn vỡ mộng với ý niệm về quyền lực như nói trên, họ mới có thể – trong niềm tin sâu xa vào Người Tôi Tớ của Thiên Chúa – nhận hiểu Ngài là Đấng Mêsia đích thực và đầy sức mạnh.

Khi áp dụng sự thật này cho chính mình, tôi nhận ra rằng chỉ trong mức độ tôi “biết” Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, tức Con Người, và chỉ trong toàn thể con người và cách sống của tôi trong tư cách là người tôi tớ của Người Tôi Tớ ấy, mới có thể có bất cứ ý nghĩa nào trong lời ca ngợi Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Trong mức độ mà bất cứ linh mục, phó tế hay người được đào tạo mục vụ nào còn bám chặt vào đặc quyền đặc lợi, chức quyền, vinh dự thế gian hay cố níu giữ một thói trịch thượng nào đó, thì bất cứ gì được nói về “địa vị” của chức linh mục thừa tác và chức linh mục phổ quát cũng đều trở thành rỗng tuếch, sai lạc và hoàn toàn giả trá.

Trong mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các tư tế có năng lực ngôn sứ đích thực đến cho Giáo Hội và cho thế giới. Các vị này – với lòng khiêm nhường sâu thẳm và với sự sáng suốt tuyệt vời – đã qui hướng lòng trí vào phép rửa của Người Tôi Tớ Giavê, vào sự kiện Con Người rửa chân cho các môn đệ, vào tình yêu mãnh liệt của Ngài đối với những người nghèo khổ và bất lực nhất trên mặt đất này, và cuối cùng, vào thái độ Ngài sẵn sàng đảm nhận thập giá. Tất cả những tiêu điểm ấy được cử hành trong bữa ăn Thánh Thể – nơi mà Đức Kitô Phục Sinh hiện diện một cách thâm sâu.

sự kệch cỡm

của những cuộc

tranh giành địa vị cao thấp

Nếu chúng ta không lột trần những khuynh huớng kiếm tìm vinh dự và mọi hình thức tự đề cao mình, chúng ta sẽ bị sốc trước sự thật khi đọc trình thuật Thánh Kinh về cuộc tranh luận lố bịch giữa các tông đồ trong đó các ông cãi nhau xung quanh vấn đề ai là người lớn nhất. Thật là không thể tưởng tượng! Liền sau việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và giải thích về ý nghĩa thâm sâu của hành động đó, chúng ta đọc thấy:

“Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 24-27).

Cũng vậy, chính Giacôbê và Gioan, qua mẹ các ông, đã xin chỗ vinh dự bên cạnh Đức Giêsu. Phải chăng họ không nhận ra rằng lời yêu cầu ti tiện ấy của họ làm đau lòng Đức Giêsu biết bao? Đức Giêsu đã trả lời họ: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì. Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và nhận phép rửa mà Ta nhận không?” (Mc 10,38).

Bản văn này rất quan trọng cho chúng ta, bởi vì ở đây Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hiểu phép rửa của chính chúng ta trong quan hệ với phép rửa của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực – một phép rửa bằng máu. Ở đây đặt ra cho các Kitôhữu và nhất là cho các linh mục một nhận thức hết sức quan trọng: đó là, mọi sự phải được cân nhắc lại. Hoặc chúng ta chấp nhận sự chọn lựa nền tảng để bước theo Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ một cách trung thành, khiêm tốn và can đảm, dù phải chịu đau khổ cho đến chết nếu cần, hoặc chúng ta vẫn tiếp tục làm nô lệ cho thói kỳ thị và lòng kiêu ngạo.

Maccô 9, 30-37 là một kiệt tác về văn chương và sư phạm. Dưới ngòi bút của Maccô, Đức Giêsu trình bày sứ điệp căn bản của Ngài cho các tông đồ như sau: “Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại“ (Mc 9,31).

Lúc ấy Đức Giêsu bước đi trước các ông - tiến về sự hoàn thành những gì Ngài đã giải thích. Trên đường đi, các tông đồ giữ một khoảng cách với Ngài để Ngài không nghe những gì họ bàn tán. Nhưng Ngài biết tỏng! Khi thầy trò quây quần trong nhà ở Carphanaum, Đức Giêsu hỏi: “Anh em tranh luận với nhau về điều gì khi đi đường?” Họ im lặng, vì chủ đề cuộc tranh luận của họ là ai lớn nhất giữa họ. Phải chăng các ông có một lương tâm tệ hại đến nỗi các ông ước mong rằng Đức Giêsu, Đấng vừa mạc khải số phận thê thảm của Ngài, không biết những gì họ đang suy nghĩ trong đầu óc mình?

Sau hai mươi thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, chúng ta có khôn ngoan hơn chút nào chăng? Nếu chúng ta thành thật, thì người tốt nhất trong chúng ta cũng sẽ phải nhìn nhận rằng có những lúc mình rơi vào cám dỗ muốn đề cao chính mình. Tại Công Đồng Vatican II, đã thường xuyên vang lên những cảnh giác chống lại thói hãnh thắng của Giáo Hội. Trong chính phiên họp cuối cùng, một số hồng y, thượng phụ, giám mục và một số nhà thần học – kể cả tôi – đã qui tụ lại với nhau để thảo luận một đề nghị cuối cùng cho Công Đồng, đó là: Chúng tôi đã kiến nghị rằng các Nghị Phụ Công Đồng sẽ không trở về với các giáo phận của mình mà trước hết không trịnh trọng cam kết theo tinh thần khó nghèo của người tông đồ - và trước hết là theo tinh thần đơn sơ tông đồ bằng cách tháo gỡ mọi tước hiệu đối nghịch với Tin Mừng vốn vẫn còn rất phổ biến trong tầng lớp lãnh đạo Giáo Hội. Vài trăm giám mục đã sẵn sàng cho bước này. Tuy nhiên, do thời gian gấp rút lúc bấy giờ, đề nghị ấy đã không bao giờ được thông qua. Tôi xác tín rằng rất có thể chúng ta đã tránh được cho Giáo Hội rất nhiều rắc rối sau Công Đồng nếu chúng ta đã chính thức biểu quyết và trung thành tuân giữ một quyết định rõ ràng về vấn đề này.

Một cách vô cùng sáng tỏ, câu chuyện Đức Giêsu chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11) hoàn toàn lột trần mưu chước Satan cám dỗ người ta sử dụng tôn giáo để vụ lợi, để đề cao chính mình, để tranh thủ quyền lực thế gian; và những cám dỗ này được thấy là trực tiếp đối nghịch với ơn gọi của Đấng-Mêsia-Người-Tôi-Tớ. Những cám dỗ khủng khiếp ấy nguy hiểm một ngàn lần hơn so với – chẳng hạn – việc thủ dâm, việc quan hệ tình dục tiền hôn nhân, việc ngừa thai ... và bất cứ ưu tư  nào khác liên quan đến lãnh vực tính dục mà Giáo Hội thường xuyên xôn xao bàn luận và khắc ghi sâu trong tâm trí người tín hữu.

Tình trạng phóng thể tôn giáo và nhất là tình trạng xuống cấp của mạc khải trọn vẹn về Đức Giêsu, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, xuyên qua lòng kiêu hãnh và cao ngạo của con người, xuyên qua lòng tham quyền lực, ... tất cả đều là công trình của ma quỉ. Chúng ta cần không ngừng dốc sức để lột trần những quyến rũ ấy – trước hết nơi chính chúng ta và rồi nơi Giáo Hội và thế giới. Công việc vạch mặt những cám dỗ này chỉ có thể thực hiện được trong mức độ mà lòng trí chúng ta gắn chặt với Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.

Đức Giêsu – người thợ mộc

Trong nhiệm cục cứu độ, Đức Giêsu ngay từ đầu được sinh ra và lớn lên trong khung cảnh nghèo. Được gọi là “con trai của bác thợ mộc”, hay đơn giản hơn: “anh chàng thợ mộc”, Ngài quen với công việc vất vả – và chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu vui vẻ làm việc cho người ta, giúp dựng nhà cửa, đóng bàn ghế cho họ ... Khuôn mặt người thợ Giêsu ăn khớp với khuôn mặt lớn hơn của Đức-Giêsu-Người-Tôi-Tớ-Giavê, “Con Người”. Cuối cùng, khuôn mặt người thợ này cũng rất am hợp với hình ảnh Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan giữa đám đông những người bình thường, những người đón nhận lời Gioan kêu gọi hoán cải.

Tôi còn nhớ hồi cuối thập niên 1950, nhiều người trong chúng ta đã bị sốc khi Hồng Y Giuseppe Pizzardo, vị lãnh đạo có nhiều quyền hành trong tòa thánh, đã cấm các sáng kiến về linh mục thợ với luận cứ kỳ quặc rằng vị trí của một người công nhân hạng quèn sẽ không phù hợp với phẩm cách của chức linh mục. Dĩ nhiên, phong trào này mâu thuẫn với cái nhìn của vị hồng y nói trên về chức linh mục, một cái nhìn được kết tinh từ cả một lịch sử dài của những linh mục mơ tưởng sự nghiệp, những linh mục ngay từ đầu bận tâm săn đuổi các tước vị và các đặc quyền trong Giáo Hội - những bận tâm này dẫn họ tiến thẳng đến chiếc mũ hồng y! Ý niệm linh mục thợ chắc hẳn đã làm sững sờ những giáo sĩ này, những người đầy tham vọng phấn đấu tranh thủ áo mão cân đai cũng như bao thứ rác rưởi vốn hão huyền và ngớ ngẩn hơn cả những thứ đang nằm trong tay bao kẻ cường hào trên thế gian này.

Thật mỉa mai, khi tôi viết những dòng này, một lá thư nặc danh vừa mới được gửi tới với lệnh truyền: “Ông hãy ngừng ngay chuyện phê bình Giáo Hội! Cả ông nữa cũng có thể được mặc áo tía đó.” Buồn nhất là sự thật trần trụi mà tác giả của lá thư này muốn nói lên: có một mối liên quan giữa sự vâng phục tối mặt và con đường tiến thân vốn đặc trưng một thời và hiện nay vẫn còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều kẻ săn tìm sự nghiệp trong Giáo Hội! Thật hoàn toàn tương phản với Đức Giêsu Người Thợ Mộc và các tông đồ của Ngài – phần đông trong họ là những ngư phủ. Ngay cả Phao-lô, người thợ dệt bố, vẫn tiếp tục công việc của mình trong khi thi hành tất cả các trách nhiệm của người tông đồ, hay như anh bạn thầy thuốc Luca vẫn duy trì công việc chữa bệnh trên đường đồng hành với Phao-lô trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Khi nhìn lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa vào trong thân phận khó nghèo, vào trong cảnh vực bần cùng hạ cấp của xã hội là một sự đối nghịch hoàn toàn với mọi hình thức cầu quyền cầu danh. Hơn tất cả các ngôn sứ trước Ngài, và ăn khớp với tôn chỉ độc đáo của Ngài là “tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”, Đức Giêsu vạch mặt và tố giác mọi sự lạm dụng tôn giáo để tranh thủ tư lợi cá nhân.

Ở đây, cần phải nhấn mạnh lại danh hiệu duy nhất mà Đức Giêsu tự gán cho mình: “Con Người” (ben adam). Thư Do Thái giải thích rõ ràng điều này như sau: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa” (2,17). Sau đó, cũng trong Thư này, ta đọc thấy: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (4,15).

Trong cảnh vực đức tin Công Giáo hay trong bất cứ truyền thống Kitô giáo nào, hễ bất cứ ở đâu có tồn tại một giai cấp giáo sĩ vị vọng được đúc nặn từ một hệ thống đặc quyền phân biệt hẳn họ khỏi đại chúng, thì tầng lớp ấy sẽ trở thành một thứ muối đạo đức giả nhạt nhẽo và trở thành sự mâu thuẫn trực tiếp với châm ngôn của Tin Mừng vốn tha thiết mời gọi chúng ta trở thành muối đất và ánh sáng cho đời. Như thế, trong ánh sáng của Tin Mừng, bất cứ sự phân biệt nào giữa giáo sĩ và giáo dân dựa trên đẳng cấp và đặc quyền đều hoàn toàn thô bỉ.

Ngay trong Giáo Hội sơ khai, sự phản đối việc thi hành quân dịch đã trở thành một dấu hiệu rõ ràng của tất cả các tín hữu bước theo Người Tôi Tớ phi bạo lực. Tuy nhiên, khi Giáo Hội thích nghi với những thay đổi xảy ra do sắc dụ của Constantine năm 313, một sự phân biệt mới kỳ quặc đã xuất hiện giữa các linh mục (lúc bấy giờ thật sự là “giáo sĩ”) và giáo dân. Việc từ chối thi hành quân dịch dựa trên tinh thần phi bạo lực bỗng trở thành một đặc quyền cho chỉ một tầng lớp người – đó là tầng lớp giáo sĩ – trong khi đó quần chúng thường dân được kỳ vọng là phải thi hành quân dịch nếu họ được lệnh trưng binh.

Một đàng, việc miễn quân dịch cho các linh mục có vẻ như bảo đảm cho các ngài thi hành vai trò của giáo sĩ là làm chứng cho Đức Kitô Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê; nhưng đàng khác, các linh mục và các giám mục đã để mình được sử dụng nhằm khuyến khích việc thi hành quân dịch của các Kitôhữu “thường dân”. Ở đây, toàn bộ ý nghĩa của việc được rửa nhân danh Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ phi bạo lực - vốn là đặc điểm của toàn dân tư tế của Thiên Chúa - đã hoàn toàn bị phá sản. Làm sao tôi, trong tư cách là một linh mục, có thể đòi rằng vai trò làm chứng và sự đồng hình dạng của tôi với Đức-Kitô-Đấng-Kiến-Tạo-Hòa-Bình không cho phép tôi thi hành quân dịch trong khi đồng thời tôi, trong tư cách là linh mục, lại bảo các anh em Kitôhữu của tôi rằng họ phải chấp hành một sắc luật nhà nước yêu cầu họ thi hành quân dịch?

Là một linh mục lính cứu thương trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, tôi đã hưởng lợi từ sự miễn chuẩn này hết mức độ mà mình có thể. Nếu không có chế độ miễn chuẩn, rất có thể tôi đã phải đương đầu với một khủng hoảng luân lý nghiêm trọng, vì trong lương tâm mình, tôi không bao giờ có thể cầm súng trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu ấy. Nói ‘hưởng lợi’, song tôi thấy cũng cần phải chỉ rõ rằng chính sách miễn chuẩn cho linh mục ấy đã đòi trả giá đắt, bởi vì trong số các đơn vị quân đội khác nhau, con số tử vong cao nhất đã thuộc về các lính cứu thương là linh mục. Tuy nhiên, sự sẵn sàng chết trong tư thế không vũ trang để phục vụ cho sự sống là một cái gì đó hoàn toàn khác với thái độ cảm tử trong khi tham gia vào việc giết đồng loại. Theo nghĩa đó, tôi đã hưởng lợi rất nhiều. Tôi có thể thêm rằng gần như mọi thành viên của Giáo Hội Hòa Bình Mennonite ở Đức đã dứt khoát từ chối tham gia quân đội, và điều xảy ra là nhiều người trong họ đã chấp nhận bị xử tử theo lệnh của Hitler để kiên trung làm chứng cho tinh thần phi bạo lực.

Dọc theo bao thế kỷ cho đến thời đại chúng ta, nhiều giám mục và giáo sĩ Công Giáo ở cả hai phía của các cuộc chiến tranh đã đóng một vai trò quị lụy rất đáng buồn – họ cổ súy sự vâng phục đối với Xê-da trong khi lẽ ra cần phải vâng phục Đức Kitô. Chỉ cần nêu ra ở đây một ví dụ của chính thế kỷ này: Khi Jagerstatter, anh bõ nhà thờ người Aùo, từ chối thi hành quân dịch “theo sự điều động của một tên tội phạm như Hitler”, cả cha sở lẫn giám mục của anh đều cố thuyết phục anh rằng thà chịu tòng quân một cách cưỡng bách hơn là phải chết. Tuy nhiên, anh ta đã tỏ ra khôn ngoan hơn và dũng cảm hơn các giáo sĩ ấy.

Trong ánh sáng của phép rửa, cuộc sống và cái chết của Đức Kitô, tôi xác tín rằng sự dấn thân thâm sâu cho tinh thần phi bạo lực và cho hòa bình là một cái gì rất cơ bản của ơn gọi Kitôhữu và ơn gọi linh mục. Trong mọi nghề nghiệp và mọi lãnh vực của đời sống, luôn cần phải chú ý thăng tiến một cơ chế công lý, tình yêu, hòa bình và phi bạo lực.

Tôi hơi ngần ngại đối với câu hỏi thường được đặt ra rằng phải chăng các linh mục nên có những quan điểm chính trị nhằm thăng tiến hòa bình, công lý, và tinh thần phi bạo lực. Dù sao, trong tư cách là linh mục và đặc biệt trong tư cách là những nhà thần học, chúng ta phải cố gắng hết sức mình để cổ võ các ơn gọi hoạt động chính trị. Đàng khác, những linh mục nào tin rằng họ phải hiện diện và hoạt động trong mọi đấu trường cuộc sống sẽ cho thấy khả năng thất bại của họ trong ơn gọi rao giảng và làm chứng cho cốt lõi tinh thần của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Giavê.

Trong suốt giòng lịch sử Giáo Hội, vô số nam nữ Kitôhữu hoàn toàn dấn thân cho các giá trị hòa bình và phi bạo lực của Tin Mừng đã phục vụ cho người nghèo, cho những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị bỏ rơi bằng những cách thức đầy sáng tạo và với tinh thần mục vụ sâu sắc. Thử nghĩ, phải chăng Giáo Hội không thể cho phép những thừa tác viên này của Đức Kitô thi hành các chức năng chuyên biệt mà cho đến nay vẫn chỉ dành riêng cho những người được truyền chức? Và nếu những người nam nữ ấy được ban quyền như vậy – như trong trường hợp chức phó tế được tái lập  (tuy nhiên rất đáng tiếc là chỉ dành riêng cho nam giới!) – thì phải chăng họ không thể được truyền chức thánh nếu họ khao khát điều đó?

làm chứng cho Chúa Phục Sinh

Ngay trước khi bầu chọn Matthia để bổ sung đầy đủ con số các tông đồ, Phê-rô đưa ra một mô tả sắc nét về những yêu cầu của một tông đồ như ta đọc thấy trong Sách Công Vụ: “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép ưủa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi lam chứng rằng Người đã Phục Sinh.”  (1,21-22).

Tôi thấy thật là một điều rất có ý nghĩa khi Phê-rô nhắc các tông đồ nhớ lại tầâm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, vì biến cố phi thường ấy cho thấy rằng Đức Giêsu, trong tư cách là Người Tôi Tớ phi bạo lực của Giavê, vui lòng đón nhận những gánh nặng của chúng ta. Đối với mọi Kitôhữu và, một cách đặc biệt khẩn thiết, đối với tất cả các giám mục và linh mục, mầu nhiệm này phải trở thành khuôn mẫu cho chứng tá của họ về lòng khiêm nhường và tinh thần phi bạo lực của Đức Giêsu cũng như cho chứng tá về việc Ngài chuyển hóa kẻ thù thành bạn hữu xuyên qua tình yêu vô điều kiện của Ngài.

Yêu cầu thứ hai là phải có sự thân mật gần gũi với Đức Giêsu qua việc đồng hành với các môn đệ Ngài. Điều này có nghĩa rằng phải nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Con Người, là “một người trong chúng ta”. Nhận biết Đức Kitô như chính Ngài biết Ngài là ai, điều đó sẽ thúc giục chúng ta – cũng như Ngài – luôn dõi mắt hướng về Giê-ru-sa-lem. Luôn luôn hướng vọng những gì sẽ được hoàn thành ở Giê-ru-sa-lem, đó là cách mà các tác giả Tin Mừng giải thích về yêu cầu này, và đó cũng được ghi nhận là đặc điểm của nhóm tông đồ Đức Giêsu. Đó là một con đường gập ghềnh sỏi đá, đầy những bất trắc và bất ngờ.

Tại sao Phê-rô không nói thẳng với vị ứng viên tông đồ kia rằng anh ta phải là một người có mặt với Đức Kitô cho đến khi Ngài chết trên thập giá?  Không kể Gioan, ai trong họ sẽ đáp ứng được điều kiện này! Nếu Phê-rô cố đòi rằng người được tuyển chọn phải là một chứng nhân trực tiếp về cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, rất có thể các tông đồ sẽ giới thiệu một phụ nữ trong nhóm họ. Vì như các Sách Tin Mừng cho thấy, có nhiều phụ nữ đi theo Đức Giêsu trên con đường đến Can-vê và đứng đó với Ngài đến cùng. Các Kitôhữu trong mọi thời đại đã tôn vinh những phụ nữ thánh thiện và can đảm này – họ, cùng với Đức Maria và Gioan, là những chứng nhân trực tiếp về cái chết của Đức Giêsu. Hơn nữa, chính Maria Ma-đa-lê-na là người đầu tiên trông thấy Chúa Phục Sinh và loan tin mừng này cho các tông đồ. Thế nhưng, vị tông đồ mới được tuyển chọn lại là một nam nhân, vì đối với các tông đồ, vốn chìm sâu trong truyền thống tổ phụ Do Thái, con số mười hai mang ý chỉ mười hai người con trai của Gia-cóp. Và theo cách hiểu ấy, một nam nhân đã được chọn.

Dù sao đi nữa, sự nhấn mạnh chính yếu của Phê-rô cũng đặt vào việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô chịu đóng đanh, Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh, đó là cốt lõi của ơn gọi Kitôhữu và là đặc điểm sâu xa của những ai được gọi để rao giảng Tin Mừng một cách đặc biệt. Tôi hy vọng rằng tất cả những ai đọc quyển sách này sẽ nhận ra mọi khía cạnh khác nữa mà tôi đề cập đến trong ánh sáng này. Tôi sẽ chỉ ra ở đây rằng những linh mục không làm chứng một cách thuyết phục cho cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của mọi người tin thì đều chỉ là những đại diện giả danh của Đức Kitô mà thôi.

Vì việc làm chứng cho cuộc Phục Sinh của Người Tôi Tớ đau khổ là trọng tâm của cuộc khảo sát lương tâm không ngừng của chúng ta và là cuộc trắc nghiệm căn tính linh mục, nên câu hỏi nền tảng luôn luôn đặt ra cho chúng ta là: Chúng ta có sẵn sàng để với trọn lòng mình thể hiện khuôn mặt Người Tôi Tớ đau khổ, khiêm nhường và trắc ẩn trong một tinh thần hân hoan tuôn trào từ niềm tin của chúng ta vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và của chính chúng ta hay không? Người xung quanh có nhận ra rằng chính đức tin sống động của chúng ta là nguồn nghị lực giúp chúng ta kiên nhẫn và hân hoan giữa bao nỗi thống khổ, bao bệnh tật, căng thẳng, bất đồng không? Chắc chắn việc suy tư về chiều sâu của đức tin chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta chú ý đến phép rửa của mình trong Đức Kitô, Người Tôi Tớ khiêm nhường và hiền lành của Giavê.

một cử hành tạ ơn

Thánh Thể đứng ở vị trí trung tâm của đoàn dân mới Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế tiến về điểm tận thời. Thánh Thể là cuộc cử hành (trong tâm tình tạ ơn) phép rửa bằng nước của Đức Giêsu trong Thánh Thần và phép rửa bằng lửa của Ngài trong cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh. Đó là một cử hành sự khải thắng của Ngài trong tư cách là Người Tôi Tớ khiêm nhường – Đấng mà chúng ta ký thác niềm hy vọng hằng sống. Nếu đời sống Kitôhữu được hiểu và được sống trong nhãn giới về nhiệm cục hiện diện cứu độ của Thiên Chúa, thì việc  cử  hành Thánh Thể là tột đỉnh của sự hiện diện ấy – một chóp đỉnh mà ở đó chúng ta gặp gỡ và hiện diện với Đấng Cứu Độ và Đấng Cứu Chuộc của lịch sử nhân loại.

Việc gắn kết khoảnh khắc hiện tại và lịch sử quá khứ của chúng ta vào trong lịch sử cứu độ của Đức Kitô sẽ làm nên thời gian kairos – một thời gian hồng phúc, một cơ hội độc đáo nối kết quá khứ với tương lai. Việc cử hành với một hồi tưởng tạ ơn đích thực sẽ làm cho tất cả lại trở thành kho tàng hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử và nối kết chúng với cả những nỗ lực có sức trao ban sự sống lẫn những thất bại của chính chúng ta. Những nỗ lực và những thất bại của chúng ta sẽ nhận được ý nghĩa trọn vẹn của chúng trong mối tương giao ấy với Chủ Tể của lịch sử. Ở đây, trong khoảnh khắc của sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta được trao ban nguồn năng lực sự sống của Ngài để tiếp tục cuộc hành trình cùng với Ngài tiến về tương lai – một tương lai có cả đau khổ lẫn niềm vui mời gọi chúng ta đương đầu với những thách đố mới và những trách nhiệm mới trong niềm hy vọng kiên vững đợi chờ sự hoàn thành chung cuộc vào Ngày của Chúa. Đó chính thật là giờ phút chúng ta gặp “rồi” Đấng mà chúng ta hy vọng cử hành cuộc chiến thắng trọn vẹn của tình yêu của Ngài – và tình yêu của chúng ta nữa – vốn còn ở phía trước.

Việc cử hành Thánh Lễ với tâm tình tạ ơn đích thực sẽ tuôn trào trong chúng ta niềm vui và niềm tín thác, và thường khơi dậy trong chúng ta thái độ sẵn sàng hơn và tỉnh thức hơn. Những năng lực của cuộc tưởng niệm tạ ơn sẽ cho phép chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, đảm nhận tất cả những đòi hỏi và những khó khăn của cuộc sống mà không bao giờ lạc mất dấu vết của Đấng Phục Sinh. Hoa quả của phút giờ hiện tại ở trong sự hiện diện của vị Chúa Tể lịch sử trổ sinh từ những năng lực quá khứ cũng dồi dào không kém chi so với hoa quả trổ sinh từ niềm hy vọng hiện tại của chúng ta, một niềm hy vọng có sức làm sống họat và đào sâu cảm thức trách nhiệm cá nhân cũng như tập thể của mình. Sức mạnh và sức bền của chúng ta được củng cố trong nghi thức hiệp lễ - qua đó chúng ta được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, Đấng đã có, đang có và sẽ đến.

Trong khi tất cả những gì được nói về Thánh Lễ đều đúng cho mọi Kitôhữu, thì cách riêng, những điều ấy đặt ra một số câu hỏi rất cơ bản cho các vị chủ tọa hèn mọn của Lời Chúa và Thánh Thể. Trong vai trò linh mục của mình, chúng ta có ngày càng trở nên những dấu hiệu sống động của các động lực lịch sử không? Trong tư cách là những tôi tớ của Đức Kitô, chúng ta có sẵn sàng cho phép Đức Kitô Phục Sinh đưa chúng ta ngày càng sâu hơn vào cộng đoàn lữ hành của Ngài không? Chúng ta có ngày càng nhận thức hơn về tầm quan trọng của sự cộng tác và tinh thần đồng trách nhiệm với cộng đoàn tín hữu qui tụ lại trong tư cách là những người cùng cử hành đức tin không?

Từ những gì tôi đã chia sẻ cho tới đây, các tiêu chuẩn cho người chủ tế Thánh Lễ rõ ràng đã hiện lộ ra. Tôi cho rằng mỗi và tất cả những đòi hỏi đặt ra cho đời sống linh mục như đã thảo luận trên đây thì có tầm quan trọng hơn nhiều so với vấn đề hạn hẹp có tính sinh học và chẳng có mấy cơ sở là vấn đề phái tính.

Thánh Lễ là giờ phút vượt qua, là sự vận động và chuyển hóa của Chúa. Đó là khoảnh khắc nghỉ ngơi? Đúng thế, nhưng còn hơn thế nữa, đó là khoảnh khắc để lên đường lần nữa, để vào chuyến phiêu du vĩ đại hơn nhiều so với những gì mà Môsê và dân It-ra-en đã kinh nghiệm. Trong mỗi cuộc cử hành Thánh Lễ, chính Đức Kitô lại mờøi gọi chúng ta: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!” (Mt 26,46).

Đức Giêsu mời gọi chúng ta nghỉ ngơi, điều đó không có nghĩa là chúng ta trở thành những con người “ngồi ì”. Ai là những con người “ngồi ì”? Để trả lời cho câu hỏi này, cần phải đặt nó trong câu hỏi nền tảng của chúng ta: Giáo Hội cần có loại linh mục nào? Những con người “ngồi ì” là những người nam cũng như nữ thường xuyên uể oải, thiếu lý tưởng và cảm hứng, những con người không thể thu nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần để khích động người khác. Con người ngồi ì là con người không thể nội tâm hóa lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy chỗi dậy, chúng ta hãy bước tới!” – nhất là khi việc bước tới có bao hàm nguy cơ phải chịu đau khổ, chịu thay đổi, chịu bất ổn trong nhất thời. Con người ngồi ì là con người bất động, tự thỏa mãn với mình, tự hài lòng với những thành quả đạt được trong quá khứ và tránh né những trách nhiệm đầy thách đố đòi mình phải dám liều. Nói tắt, con người ngồi ì là con người nhút nhát.

Rất thường, những kẻ tự thỏa mãn với mình là những kẻ có não trạng cố chấp (fundamentalists), dị ứng với những cách nghĩ mới mẻ đầy sáng tạo và bám chặt vào những chuẩn mực và những qui tắc của quá khứ. Đó là những nhà bảo vệ truyền thống cách cứng nhắc – nếu có năng lực, họ sẽ tích cực sử dụng năng lực của mình để vãn hồi và củng cố một trật tự của quá khứ. Những người ngồi ì là những người bám dính vào những chiếc ngai do mình tự tạo ra, không sẵn sàng tiến lên phía trước – bởi vì việc tiến lên như thế sẽ có nghĩa là họ phải từ bỏ những hấp dẫn và những đặc quyền của chủ nghĩa giáo sĩ trị trong mọi dạng thức và ở mọi cấp độ của nó.

Thời đại của chúng ta, với những đổi thay nhanh chóng và với bao phát triển mới mẻ, mở ra một khó khăn rất đặc thù. Giáo Hội hôm nay phải khổ sở nhiều vì những linh mục và giám mục - bám chặt vào các địa vị, các chức tước của mình – khuyến khích các tín hữu quay ngược chiều kim đồng hồ, hướng vọng về lớp bụi mờ quá khứ. Các vị đó không hề ý thức rằng làm thế là biến tất cả chúng ta – như trường hợp của vợ ông Lót – trở thành những cột muối! Chỉ khi chúng ta cùng sống với Đức Giêsu, Chủ Tể của lịch sử, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại, thì chúng ta mới có thể cùng nhau tiến về phía trước. Thật vậy, trong cái nhìn của nhiều người, việc tiến lên phía trước cùng với Đức Giêsu trong cuộc tưởng niệm tạ ơn là một hồi ức và thách đố quá nguy hiểm. Nếu Đức Kitô Phục Sinh của lịch sử có thể chọn hiện diện trọn vẹn với chúng ta trong hành vi bẻ bánh và chia sẻ chén rượu, thì phải chăng Ngài không thể biến đổi những con người ngồi ì trở thành những khách hành hương hăng hái và những người tiên phong của lịch sử? Đây là một phép lạ vĩ đại mà chúng ta khát khao và cầu xin.

Cố gắng định hình lịch sử tương lai trong tư cách là những nhà kiến tạo hòa bình phi bạo lực và dũng cảm, đó rõ ràng là cuộc phiêu lưu vĩ đại của thời đại chúng ta. Nếu cảm nghiệm về Bài Giảng Trên Núi có thể gây cảm kích lớn lao cho những con người nam và nữ như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Jr., Dorothy Day và các vị sáng lập đầy dũng cảm của các cộng đoàn tu trì, và có thể chuyển hóa họ trở thành những nhà tiên phong luôn luôn lao về phía trước, thì tại sao thời nay xem ra thiếu vắng những khuôn mặt lãnh đạo như thế?

Trong ánh sáng này, chúng ta thấy rõ rằng mình cần một cuộc canh tân phụng vụ. Nhưng một nền phụng vụ canh tân mà chúng ta cần đến phải vượt quá tiêu điểm hiện nay vốn đặt trên những tranh luận về nghi lễ. Tiên vàn, một cách lột xác triệt để, chúng ta cần trở thành những con người đầy niềm tin và hy vọng hơn, biết rộng mở đôi tai, quả tim và trí óc hơn để sẵn sàng đón nhận và hưởng ứng lời mời gọi tiến lên đầy thách đố của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy bước tới!

“tất cả họ đều

đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,4) 

Đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Hãy chỗi dậy! Chúng ta hãy đi!”, Phê-rô, con người tự tin thái quá, đã trả lời: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với Thầy dù phải tù tội hay phải chết” (Lc 22,23). Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết, sự dũng cảm ấy của Phê-rô đã dẫn ông ta trôi tụt xuống chỗ thê thảm. Khi Charles de Gaulle đang cầm quyền ở Pháp, các nhà báo Pháp vì muốn châm biếm đã dựng nên câu chuyện rằng có lần De Gaulle đọc kinh cầu ở Montmartre trong đó có câu như sau: “Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, hãy tin tưởng vào con!” Trong khi các giám mục và các linh mục biết rõ sự cảnh giác về việc quá tin vào chính mình, tôi vẫn e rằng có rất nhiều người trong chúng ta – nhất là những ai đã thành công trong việc leo lên các nấc thang trong Giáo Hội – cũng cơ hồ muốn thốt lên lời nguyện pha trò rất ư hàm súc ấy.

Không phải những người có quyền lực và giàu tài năng trong chúng ta là những người bị cám dỗ đặc biệt đó sao? Không có thuốc chữa trị nào khác cho căn bệnh này ngoài việc đặt trọn niềm tín thác vào sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, vào lời hứa của Lễ Ngũ Tuần. Chính Chúa Thánh Thần – Đấng đã thay đổi triệt để Phê-rô và các tông đồ khác vốn trước đó đã vấp ngã trước ‘bài trắc nghiệm’ là cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô – cũng sẽ biến đổi chúng ta.

Nếu trong đức tin sâu thẳm, chúng ta suy ngẫm những lời này: “Tất cả họ được đầy tràn Thánh Thần”, thì những tước hiệu như ‘Đức Cha, Đức Ông, Đức Thánh Cha’... và tất cả các tước hiệu sáo rỗng khác sẽ xẹp như bong bóng xì. Vì trong Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc của những mối quan hệ chính trực, thì chính những người bé nhỏ nhất, vô danh nhất, hèn kém nhất là những người mang trong mình sức mạnh đầy tác động của Chúa Thánh Thần.      

Toàn thể trình thuật về biến cố Hiện Xuống hướng sự chú ý của chúng ta về lời tiên tri của Ngôn Sứ Giôen: “Ta sẽ tuôn đổ Thánh Thần của Ta trên mọi xác phàm / con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri ... Ngay cả các nô lệ của Ta, nam và nữ, cũng sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Ta trong những ngày đó, và họ sẽ nói tiên tri” (Cv 2,17-18). Rõ ràng, ở đây không hề muốn nói rằng các tôi trai tớ gái sẽ trở thành linh mục, vì ý niệm này (= linh mục) không tồn tại trong Giáo Hội sơ khai của các tông đồ. Chỉ đến thời hậu tông đồ thuật ngữ ‘linh mục’ mới được vận dụng lại trong liên hệ đến Đức Kitô, Vị Linh Mục Thượng Phẩm đích thực.

Cộng đoàn Hiện Xuống, được đánh dấu cả bởi nhãn giới về Đức Kitô Ngôn Sứ lẫn bởi niềm xác tín sâu sắc về nhu cầu phải ngoan ngoãn và tín thác vào Chúa Thánh Thần, đã tin tởng rằng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều được đánh dấu để trở thành những người thông dự cách khiêm tốn vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô. Nói một cách nôm na hơn, mọi Kitôhữu đích thực, dù nam hay nữ, đều là những con người ngôn sứ, những con người được giải phóng và đầy tràn Thần Khí do tác động của Thánh Thần Đức Kitô; và họ được trao ban một sứ mạng giải phóng, sứ mạng mà trong thời đại chúng ta luôn luôn đòi hỏi phải tỉnh thức và sáng suốt biện phân. Như vậy, câu hỏi mãi còn cho chúng ta trong tư cách là Kitôhữu và là thành viên của Nhiệm Thể Đức Kitô là: Chúng ta có sẵn sàng mở lòng ra – bằng bất cứ giá nào – để đón nhận sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi chúng ta và nơi những người khác không?

Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức (Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!