.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

Lời Giới Thiệu

Đôi Dòng Về Tác Giả

1. Kinh nghiệm góp nhặt trên đường đời tôi

2. Ánh sáng chói loà của Thánh Kinh

3. Nhận hiểu ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của ơn gọi Linh Mục

4. Chức Linh Mục trong buổi ban đầu

5. Khuôn mặt người Linh Mục qua giòng lịch sử

6. Chức Linh Mục và đời sống chủng viện theo mẫu thức TRIĐENTINÔ

7. Những vấn nạn xung quanh vấn đề độc thân

8. Khuôn mặt Linh Mục thời công đồng và sau công đồng

9. Dự đoán tương lai của ơn gọi Linh Mục

10. Những con vật trên tàu NÔ-E hôm nay

11. Này tôi là nữ tì của Đức Chúa!

lời nguyện đúc kết

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Giáo Hội cần loại Linh Mục nào?
Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức
Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
4. CHỨC LINH MỤC TRONG BUỔI BAN ĐẦU

“Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2,46-47). Chúng ta có thể hình dung và hiểu bản văn ấy như thế nào đây? Có lẽ, thoạt đầu, chúng ta có thể mường tượng một linh mục nam giới, mới được truyền chức bởi một trong số các Tông Đồ, cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn cho - và cùng với - cộng đoàn qui tụ. Điều chắc chắn là những cộng đoàn non trẻ này của các Tông Đồ, được hình thành bởi một nhóm các gia đình, biết rất rõ lời di chúc của Đức Giêsu: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy!”

những ‘cộng đoàn dùng bữa’

ở Giê-ru-sa-lem

Khi quây quần với nhau, những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này giữ hồi ức đức tin của họ sống động bằng cách chia sẻ với nhau đức tin, đức cậy, đức ái, niềm vui. Họ chia sẻ chính con người họ và những gì mà họ sở hữu, nhưng nhất là họ chia sẻ đức tin và tâm tình ca ngợi của mình hướng về Thiên Chúa. Họ chẳng mấy cần đến cơ cấu và tổ chức, mặc dù qua các Thư của Phao-lô và qua Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng vấn đề cảm thức tôn ti trật tự đã thu hút nhiều sự quan tâm. Nghĩa là, cần có người canh chừng để bảo đảm mọi sự được làm cách đúng đắn và không một điều thiết yếu nào bị bỏ sót. Suy đi ngẫm lại, chúng ta có thể kết luận rằng như vậy cần có một người nào đó ‘chủ tọa’ những buổi qui tụ này, nhưng tất cả mọi người đều chịu trách nhiệm về sự trưởng thành thiêng liêng và về chứng tá của cộng đoàn.

Các cộng đoàn nhỏ ở Phi Châu hay các cộng đoàn cơ bản ở Châu Mỹ La Tinh có thể giúp chúng ta mừơng tượng về những cộng đoàn dùng bữa thuở phôi thai này. Tuy nhiên, chúng ta không nên bỏ qua tầm quan trọng của sự kiện rằng các cộng đoàn đức tin sơ khai rất khác nhau về một phương diện. Trong những cộng đoàn quá non trẻ, người ta không bao giờ bị mất Thánh Lễ do thiếu vắng một linh mục được truyền chức. Cả Công Vụ Tông Đồ và các Thư Phao-lô đều sử dụng thuật ngữ oikia, nghĩa là Giáo Hội tại gia. Rất nhiều những Giáo Hội tại gia này được nhận ra qua những cái tên phụ nữ. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy “gia đình của Stephanas” (1Cr 16,15), và một đôi vợ chồng “Prisca và Aquila ... với toàn gia đình họ” (1Cr 16,19). Trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phao-lô nồng nhiệt chào “Phoebe, một phó tế của Giáo Hội ở Cenchreae” (Rm 16,7), và ở cuối thư chúng ta gặp thấy một danh sách dài những đàn ông và phụ nữ dấn thân phục vụ cho Tin Mừng và cho các cộng đoàn đức tin bé nhỏ hay các Giáo Hội tại gia của họ.

Không phải tôi là người duy nhất nghĩ rằng các phụ nữ đôi khi đã chịu trách nhiệm toàn bộ buổi qui tụ của cộng đoàn đức tin, việc ca ngợi, tưởng niệm tạ ơn và huấn giáo tại nhà họ. Lúc ấy họ đã không – và không thể – lường trước được những vấn đề của chúng ta hôm nay, họ càng không hiểu được những cân nhắc chi li của chúng ta liên quan đến “tính hiệu lực của các thứ bậc”, nhưng chắc chắn họ có quan tâm đến lòng trung thành đối với Đức Kitô và – một mức nào đó – quan tâm đến tính kỷ luật của các nghi lễ.

Việc suy tư về những Giáo Hội tại gia nhỏ bé này phải thúc đẩy chúng ta hăng hái quay trở về và nắm bắt lại sự tươi trẻ của buổi ban đầu Giáo Hội và phải giúp chúng ta biết hình dung ra những viễn tượng đầy sáng tạo và những khả năng khả thi cho thời đại chúng ta.

tính phong phú và đa dạng

của các đặc sủng

Cả Công Vụ Tông Đồ lẫn các Thư Phao-lô đều giới thiệu cho chúng ta những ý tưởng sống động liên quan đến tính phong phú và đa dạng của các đặc sủng và các sứ vụ trong Kitô giáo thuở sơ khai. Một điều hiển nhiên nhất, đó là loại chức linh mục mà sau này Công Đồng Tridentinô phát triển không hề có gốc rễ nào trong cảm nghiệm Thánh Kinh này. Cũng không thấy có hướng chỉ nào về chiều hướng ấy trong cách hiểu và cách thể hiện cử hành thời sơ khai. Ý niệm về nhóm “một người” (“one-person” team) vốn không hề được ai tưởng nghĩ tới – tôi muốn nói đến ý niệm về một cá nhân có năng lực đảm nhận hết mọi sự cho mọi người! Thật vậy, nhóm “một người” tự thân nó là phản Tin Mừng. Trong khi các mục tử tốt lành ngày nay phải săn sóc một số người và một số nhóm chuyên biệt theo những khả năng, đặc sủng, và mức độ sẵn sàng riêng của họ, thì chính toàn thể cộng đoàn đảm nhận trách nhiệm quan tâm tới việc giáo dục, cử hành, săn sóc các bệnh nhân, những người già, những người neo đơn.

Thánh Phao-lô nói: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ” (1Cr 12,27-30). Trong ánh sáng này, chúng ta được thúc đẩy để nhận ra, biện phân và – trong sự tự do đầy sáng tạo và trong ý thức trách nhiệm – chúng ta sẽ ngày càng phát huy những năng lực khác biệt và đa dạng ấy trong toàn thể Giáo Hội hôm nay.

các trưởng lão của Giáo Hội sơ khai

và các linh mục hôm nay

Theo từ nguyên, từ hiện đại “linh mục” (priest, prêtre, presbitero, priester) có gốc ở từ Hi Lạp “presbyteroi”, nghĩa là “những công dân lão thành”. Trong cộng đoàn Do Thái giáo truyền thống, có một vị trí dành cho các công dân lão thành. Sự kiện sống lâu không phải là yếu tố có tầm quyết định lắm; đúng hơn, điều được người ta kỳ vọng ở đây là sự khôn ngoan và nhiệt tình phục vụ. Trong truyền thống Do Thái giáo, người ta thấy một nhóm trưởng lão làm việc sát cánh với các phẩm trật tư tế và Lê-vi khác nhau. Không bao giờ có ai nghĩ đến chuyện gạt một trưởng lão ra khỏi nhóm – vì tự bản chất, nhóm luôn luôn là một cơ chế có tính tập đoàn. Cùng với nhau, các trưởng lão đưa ra những lời khuyên và những hướng dẫn cho cộng đoàn trong việc hợp tác với các tư tế.

Cũng thế, có một sự kiện hiển nhiên rằng trong cộng đoàn Kitô giáo sơ khai, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thống Do Thái giáo, không một trưởng lão đơn độc nào đã từng đứng ra cai quản cách đơn phương. Một cách thiết yếu, công việc cai quản là công việc có tính cộng tác, chia sẻ sự khôn ngoan và quyền bính, mang dấu ấn bởi một tinh thần quảng đại và nhiệt tâm phục vụ.

Các Thư Mục Vụ cho chúng ta một thoáng nhìn về sự phát triển tính tổ chức của Giáo Hội vào khoảng năm 100. Một nhóm tương đối nhỏ các trưởng lão (presbyteroi) thi hành một thứ chức vụ chủ tọa có tính tập đoàn trong hội đồng, nhằm phục vụ cho thiện ích của cộng đoàn. Một số trong họ cũng được cộng đoàn ủy thác sứ vụ giảng thuyết và giáo huấn. Đành rằng những công việc này được xem như là những công việc đầy vinh dự, nhưng những con người thi hành các công việc ấy không bao giờ được coi là bề trên của người ta , cũng không được ban tặng bất cứ tước hiệu hay sự phân biệt nào theo chiều hướng đẩy họ lên cao hơn và tách biệt họ khỏi cộng đoàn. “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ Lời Chúa và giảng dạy” (1Tm 5,17).

Như vậy, rõ ràng là không thể tưởng tượng việc tạo lập và phát triển các cộng đoàn Kitô giáo mà không có một tập đoàn các trưởng lão được thiết định, như chúng ta thấy trong các chỉ thị mà Thánh Phao-lô đề ra cho Titô: “Tôi đã để anh ở lại đảo Crêta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh ...” (Tt 1,5).

Ở giai đoạn này trong chặng đường phát triển của Giáo Hội, các Thư Mục Vụ cũng đề cập đến sự tuyển chọn các giám mục. Mặc dù những qui tắc hay những tiêu chuẩn cụ thể cho việc lựa chọn các giám mục và các phó tế vốn đã có sẵn rồi, song các qui tắc ấy luôn luôn được hiểu và được triển khai trong một bộ khung có tính tập đoàn rộng lớn hơn. Hơn nữa, để phục vụ cho sự hòa thuận và cho việc làm chứng, trật tự cũng được nhấn mạnh.

Mối quan tâm sâu xa và sự săn sóc ân cần đối với các bệnh nhân là mối ưu tiên hàng đầu của những cộng đoàn Kitôhữu bé nhỏ này, như được ghi nhận rất rõ trong Thư của Thánh Gia-cô-bê: “Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ nục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa” (Gc 5,14). Nói chung, bản văn này được hiểu trong bối cảnh một tập đoàn tính trong đó nghi thức xức dầu được cử hành bởi các trưởng lão. Đây đích thực là một kinh nghiệm phụng vụ không có những áo mão cân đai của lễ nghi nặng nề.

Trên khắp thế giới ngày nay, người ta đang tha thiết mong muốn giới cầm quyền trong Giáo Hội ủy trao việc trao ban Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho các y tá, bác sĩ, các hiệp hội mục vụ giáo dân hay các nhóm người cao tuổi có năng lực – trong tính cách tập đoàn, họ có thể thăm viếng và săn sóc các bệnh nhân và những người già cả. Những người đã về hưu, cả nam lẫn nữ, là một kho tàng dồi dào chưa được khai thác để đảm nhận những sứ vụ khác nhau trong Giáo Hội. Nhiều người trong số này không những đã nhận được sự đào tạo về thần học, mục vụ và lâm sàng, mà còn có một căn bản linh đạo sâu sắc ngang bằng hoặc hơn cả một số linh mục hay giám mục. Thật vô lý khi rả rích than thở rằng Giáo Hội thiếu ơn gọi linh mục trong khi mà Chúa Quan Phòng cung cấp cho chúng ta dư dật những con người vừa có khả năng vừa giàu nhiệt tâm ngay trước mắt chúng ta! Những sứ giả đầy tiềm năng này của Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta không chỉ những cơ hội kịp thời để bổ sung cho Giáo Hội và giải phóng Giáo Hội khỏi những khuôn khổ cứng nhắc và não trạng nệ nghi lễ cũ rích, mà còn có thể thăng tiến tính tập đoàn ở mọi cấp độ.

Tác giả: Lm Giuse Lê Công Đức (Nguyên tác : Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!