Lạy Chúa Giêsu Kitô,
năm mươi sáu năm qua,
Chúa đã cho phép con làm sứ vụ của mình
với hàng ngàn anh em trong chức linh mục,
bằng việc giảng dạy, tư vấn, khích lệ, và an ủi họ.
Cùng với nhau, chúng con đã học và – con hy vọng rằng -
sẽ còn tiếp tục học
để biết khiêm nhường
và can đảm theo Chúa, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê,
để biết kính trọng và phục vụ mọi thành viên đoàn dân tư tế của Chúa trên thế giới này.
Xin hãy đổ đầy trong chúng con đức tin,
niềm vui, hy vọng và tình yêu nồng cháy!
Xin hãy đào sâu trong chúng con
khả năng nhận biết Chúa mỗi ngày một hơn – Chúa là Người Tôi Tớ phi bạo lực,
là Con Đường Hòa Bình,
là Đấng An Ủi của những ai sầu muộn và thất vọng!
Bằng sức mạnh của Thánh Thần,
xin hãy giúp chúng con nhận hiểu hơn
và thăng tiến hơn nữa các đại lộ hòa bình,
Xin giúp mỗi người trong chúng con
quyết tâm trở thành –
trước hết – những đầy tớ trung tín của Lời Chúa,
những thừa tác viên vui tươi và khiêm tốn
để phục vụ tất cả mọi người
mà Chúa ủy thác cho chúng con.
Xin Chúa chúc lành cho giáo hoàng
và các giám mục của chúng con,
cho tất cả những ai đang nắm quyền bính trong Giáo Hội,
để các vị sống tốt hơn
và thúc đẩy một cách sáng tạo hơn
sự hiệp nhất trong khác biệt.
Xin ban nghị lực cho tất cả chúng con,
để chúng con có thể trở thành
những chứng nhân đích thực và thánh thiện
cho Chân Lý của Chúa,
và trở thành những khí cụ hữu hiệu
trong công cuộc thăng tiến sự hiệp nhất các Kitôhữu,
thăng tiến mối liên đới giữa mọi người –
vì ơn cứu độ của toàn thế giới. Amen.
hậu chú
Bản văn của sách này đã được viết trước khi Vatican tuyên bố rằng việc không chấp nhận phụ nữ vào chức linh mục thừa tác phải được coi như một chân lý bất khả ngộ. Tôi nghĩ rằng cho tới nay, bạn đọc cũng đã nhận ra vấn đề không hẳn như vậy. Những phản ứng trên khắp thế giới, nội trong phạm vi Kitô giáo, có thể cho thấy rõ điều này.
Sự phê phán rộng rãi đối với việc sử dụng phạm trù “bất khả ngộ” tựu trung dựa vào hai lý do sau đây:
1. Cách thức công bố “bất khả ngộ” trong vụ này không đáp ứng những điều kiện bắt buộc cho một giáo thuyết bất khả ngộ của giáo hoàng, như đã được ấn định bởi Công Đồng Vatican I (Pastor aeternus), nghĩa là, mọi tuyên bố bất khả ngộ phải được chuẩn bị trước bằng một cuộc thẩm tra niềm xác tín của mọi tín hữu, và khi thẩm tra như vậy, “mọi phương tiện mà Chúa Quan Phòng ban cho phải được vận dụng.” Hơn nữa, sự tuyên bố bất khả ngộ phải được chứng minh là đặt nền trên Thánh Kinh và trên truyền thống cổ sơ nhất của Giáo Hội.
2. Phần đông các nhà thần học và nhất là các học giả Thánh Kinh đều đồng ý rằng trong Thánh Kinh không thể tìm thấy chứng cứ thuyết phục nào cho việc tích cực ngăn chặn phụ nữ khỏi chức linh mục. Chứng cứ rằng Đức Giêsu “đã không truyền chức cho phụ nữ” là một chứng cứ ngớ ngẩn, vì Thánh Kinh cũng đâu có nói gì về việc “truyền chức” cho nam giới. Đức Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, ủy trao cho toàn thể các tín hữu như một quà tặng tối thượng, một mệnh lệnh và một di chúc: “Hết thảy các con hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy!” Cũng rất cần ghi nhận rằng Đức Giêsu đã chọn các phụ nữ để làm chứng nhân và sứ giả loan báo về cuộc Phục Sinh của Người.
Trong bản văn quyển sách của tôi, tôi đã tránh không ủng hộ hay phản đối việc truyền chức linh mục cho phụ nữ. Tôi muốn để độc giả tự rút ra kết luận dựa vào các dữ kiện của Thánh Kinh và từ “các dấu chỉ của thời đại”. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc độc giả rằng Giáo Hoàng Gioan XXIII không chỉ khẩn thiết kêu gọi chúng ta ý thức các dấu chỉ của thời đại mà ngài còn vạch rõ rằng vai trò ngày càng quan trọng của phụ nữ trong xã hội, trong văn hóa, và trong Giáo Hội là một trong những dấu chỉ nổi bật nhất của thời đại chúng ta.
Tôi nghĩ rằng chúng ta nên thảo luận một cách tử tế và nhã nhặn về vấn đề nóng bỏng này, với những luận cứ có cơ sở đàng hoàng, và với khiếu hài hước nữa.
BERNARD HARING