.:: Cong Giao Viet Nam ::.


Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
  Tủ Sách - Chủ Đề
  Suy Tư - Chiêm Niệm
  Văn Hóa - Xã Hội
  Y Tế - Giáo Dục
Mục Lục

A1. Tâm Lý Vợ Chồng Trẻ - NHỮNG KHÁC BIỆT NƠI NGƯỜI VỢ

A2. NGƯỜI CHỒNG MUỐN ĐƯỢC LÀM ĐÀN ÔNG

A3. HIỂU VỢ VÀ CẢM THÔNG VỚI VỢ

A4. HIỂU CHỒNG VÀ CẢM THÔNG VỚI CHỒNG

A5. NHÌN NHẬN SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA VỢ

A6. CẦN HIỂU CHỒNG HƠN NỮA

A7. KIÊN NHẪN TÌM HIỂU THÊM VỀ VỢ MÌNH

A8. LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM VỢ

A9. COI VỢ NHƯ NGƯỜI BẠN ĐƯỜNG

A10. CẦN CẢM THÔNG VÀ NÂNG ĐỠ CHỒNG HƠN NỮA

A11. NHỮNG KHÁC BIỆT CỦA VỢ LÀ BỔ TÚC CẦN THIẾT CHO CHỒNG

A12. SỐNG TỐT MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHỒNG LÀ TỰ HOÀN HẢO HÓA BẢN THÂN

A13. NGHỆ THUẬT LÀM CHỒNG

A14. BÍ QUYẾT ĐỂ GIỮ CHỒNG

A15. CƯ XỬ VỚI VỢ NHƯ MỘT NGƯỜI CHỒNG TỐT

A16. BÍ QUYẾT CHINH PHỤC CHỒNG

A17. ĐỊA VỊ CỦA NGƯỜI CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH

A18. GIỮ CHO TÌNH YÊU LUÔN TƯƠI THẮM

A19. NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN TÌNH YÊU

A20. VAI TRÒ CHỦ ĐỘNG CỦA NGƯỜI VỢ TRONG HẠNH PHÚC HÔN NHÂN

A21. KHI THỬ THÁCH CHỚM NỞ HÃY NHỚ LỜI THỀ THỦY CHUNG

A22. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA ĐỦ TRƯỞNG THÀNH.

A23. KHỦNG HOẢNG CẦN CHO TRƯỞNG THÀNH

A24. NGUYÊN TẮC HÒA HỢP VÀ BỔ TÚC

A25. THỬ THÁCH CỦA GHEN TƯƠNG

A26.  VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG BẰNG CẢM THÔNG

B1. Linh Đạo Đời Hôn Nhân - MỘT NỀN TU ĐỨC CHO BẬC HÔN NHÂN

B2. YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA VỢ CHỒNG

B3. ƠN GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN

B4. ĐỨC KHIẾT TỊNH CỦA BẬC HÔN NHÂN

B5. ĐỨC KHÓ NGHÈO TRONG BẬC HÔN NHÂN

B6. ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG

B7. SỰ CAO TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG

B8. MỤC ĐÍCH HÔN NHÂN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

B9. Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI

B10. CON ĐƯỜNG KHỔ CHẾ VÀ THẦN BÍ CỦA BẬC HÔN NHÂN

B11. SỐNG NHƯ CHÚA KITÔ

B12. ĐỌC KINH THÁNH TRONG GIA ĐÌNH

B13. ĐỌC SÁCH VÀ SUY NIỆM

B14. QUAN NIỆM KITÔ GIÁO VỀ TÌNH YÊU VỢ CHỒNG

B15. YÊU THƯƠNG ĐÍCH THỰC

B16. GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI CỦA TÌNH YÊU

B17. HỌC TẬP YÊU THƯƠNG

B18. QUAN HỆ VỢ CHỒNG TRONG LINH ĐẠO HÔN NHÂN

B19. QUAN HỆ TÍNH DỤC TRONG HÔN NHÂN

B20. SỰ CAO CẢ CỦA TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG

B21. VỢ CHỒNG GIÚP NHAU NÊN THÁNH

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác giả: Lm. Minh Anh, TGP. Huế
Nguồn: D. WAHRHEIT
B5. ĐỨC KHÓ NGHÈO TRONG BẬC HÔN NHÂN

1. Trong số 25 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng khi bàn về phẩm giá cao cả của bậc hôn nhân, Công Đồng Vaticanô II đã quả quyết rằng, cần phải có nhân đức anh hùng mới có thể chu toàn được những nghĩa vụ của đời sống vợ chồng trong gia đình.

Các vị thánh được gọi là những bậc anh hùng trong đức tin, anh hùng vì hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho đức tin; nhưng cũng anh hùng không kém khi làm chứng cho đức tin bằng cuộc sống âm thầm hy sinh từng ngày. Dĩ nhiên, không phải chỉ có những tu sĩ mới có thể sống được cuộc sống anh hùng như thế, những người sống bậc vợ chồng nếu không có một sự kiên nhẫn đến độ anh hùng thì không thể nào chu toàn được ơn gọi và đứng vững trước những thử thách trong cuộc sống chung.

Đời sống cộng đoàn trong dòng tu đòi buộc các tu sĩ phải giữ ba lời khấn là khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục; đời sống tu trì là một thể hiện cao độ của đức ái. Cả ba lời khấn ấy đều nhằm giúp cho các tu sĩ xây dựng cộng đồng yêu thương và như thế trở thành nhân chứng cho tình yêu của Chúa.

Đời sống hôn nhân và gia đình, như Công Đồng Vaticanô II đã định nghĩa trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, thiết yếu là một cộng đồng tình yêu. Do đó, cũng giống như trong tất cả cộng đồng tu trì nào khác, ba lời khấn cũng cần thiết để xây dựng tình yêu trong gia đình. Tình yêu mà đôi tân hôn trao cho nhau trong bí tích Hôn Phối cũng chính là một hình thức khấn hứa. Hai người hứa giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục đối với nhau.

2. Chúng ta đã bàn đến nhân đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng. Giờ đây, chúng tôi xin nói đến đức khó nghèo mà hai vợ chồng Kitô hữu được mời gọi vun trồng để xây dựng cộng đồng tình yêu trong gia đình.

Quyền sở hữu là quyền gắn liền với quyền được sử dụng của cải. Tuy nhiên, quyền sở hữu không phải là một quyền tuyệt đối vì bên cạnh đó, vẫn có những giá trị cao hơn như tình yêu, lòng bác ái; vì thế, con người có thể từ bỏ một phần hoặc hy sinh hoàn toàn. Một trong những nguy cơ lớn nhất mà quyền sở hữu thường đặt con người vào là sự ích kỷ. Bản năng chiếm hữu dễ khiến con người thể hiện quyền làm chủ của mình bằng những phát biểu như: “Cái này là của tôi, tất cả những cái này là của tôi, tôi sử dụng tuỳ ý tôi”, v.v.. Đàng sau những phát biểu như thế có thể ẩn tàng cả một thái độ ích kỷ khước từ Thiên Chúa và chối bỏ tha nhân.

Nhân đức khó nghèo mà những người sống đời tận hiến khấn giữ không hẳn chỉ có nghĩa là khước từ quyền sở hữu hoặc sống một cuộc sống khắc khổ, nhưng chính là chia sẻ cho nhau. Nhân đức khó nghèo sẽ trở thành vô nghĩa nếu nó không nhắm đến đức ái. Tự nó, sự khó nghèo không bao giờ là một nhân đức. Người ta có thể là một con người tham lam ích kỷ ngay cả trong thân phận ngửa tay ăn xin. Khó nghèo chỉ có thể là một nhân đức khi của cải vật chất không được tôn thờ như một cứu cánh và khi con người biết sống chia sẻ cho nhau.

Trong ý nghĩa đó, chúng ta hiểu được lời chúc phúc của Chúa Giêsu: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Khi con người biết ra khỏi chính mình để chia sẻ cho tha nhân, đó là lúc họ đang sống tinh thần khó nghèo.

3. Hơn bất cứ nơi nào, cộng đồng tình yêu do hôn nhân thiết lập càng đòi hỏi con người sống nhân đức khó nghèo hơn.

Thời Giáo Hội tiên khởi, khi nhìn vào cuộc sống cộng đồng tín hữu, những người chung quanh phải thốt lên: “Hãy nhìn kìa, họ yêu thương nhau là dường nào!”. Thật thế, người ta ngưỡng mộ các tín hữu sơ khai vì mỗi người bán tất cả tài sản của mình và góp chung lại với nhau. Đức ái đã được thể hiện cao độ bằng sự để chung của cải và chia sẻ cho nhau. Nếu có một xã hội Cộng sản thật sự thì cộng đồng các tín hữu tiên khởi chính là xã hội ấy. Nhưng một xã hội Cộng sản như thế chỉ có thể hiện hữu được vì xây dựng trên tình thương.

Hôn nhân và gia đình là một xã hội mẫu mực và cơ bản của con người. Không có sự chia sẻ đặt nền móng trên tình yêu thương, xã hội ấy không thể đứng vững được. Khi hai người phối ngẫu nên một với nhau họ nên giống cộng đồng tín hữu tiên khởi. Họ sẽ để chung của cải, sẽ không còn những phát biểu         như: “Cái này là của tôi, tôi muốn sử dụng như thế nào tuỳ ý tôi”. Mà chỉ còn chung một ý muốn: “Cái này là của chúng ta, chúng ta quyết định chung với nhau”.

Người ta diễn tả sự để chung, hay đúng hơn, nhân đức khó nghèo ấy bằng kiểu nói “của chồng công vợ”. Người chồng có đầu tắt mặt tối để làm ra tiền của, tiền của ấy cũng không còn là của riêng mình nữa mà là của chung cho cả hai người. Người vợ có buôn bán tảo tần để kiếm ra tiền của, tiền của ấy cũng là của chung cho cả hai người.

4. Nhân đức nào cũng bao hàm sự hy sinh. Tự nó, việc để chung của cải chưa hẳn đã là một nhân đức. Chỉ có nhân đức khi con người biết ra khỏi chính mình, lấy ý muốn của người khác làm của mình. Như vậy, của cải vật chất đã được đặt đúng chỗ của nó, nghĩa là một phương tiện để giúp con người đạt được giá trị cao cả hơn trong cuộc sống. Đó là tình yêu và sự thông hiệp trong vợ chồng.

Nhưng tình yêu và sự thông hiệp ấy không chỉ đóng khung trong quan hệ vợ chồng mà còn được trải dài tới con cái trong gia đình. Khi con cái đã đến tuổi có thể hiểu được giá trị của vật chất của cải thì cha mẹ cũng nên cho chúng dự phần vào việc chia sẻ. Điều này sẽ giúp con cái biết chia sẻ và có tinh thần trách nhiệm chung trong gia đình.

Ngoài ra, sự chia sẻ của cải trong gia đình cũng không được đóng khung giữa vợ chồng và con cái. Tinh thần nghèo khó và chia sẻ đích thực cũng sẽ thôi thúc con người ra khỏi ranh giới của gia đình để hướng đến những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ túng thiếu. Hôn nhân và gia đình là một xã hội mẫu mực. Điều đó có nghĩa là tình yêu thương, sự san sẻ trước tiên phải thực hiện trong gia đình để rồi từ đó trào tràn ra cho cả những người chung quanh.

Việc sử dụng của cải là một chất nổ tiềm tàng trong xã hội. Bao nhiêu bất công và tệ trạng xã hội đều bắt nguồn từ lòng tham không đáy và tính ích kỷ của con người. Trong một quy mô nhỏ hơn, việc quản lý của cải trong gia đình cũng là đá thử vàng của tình nghĩa vợ chồng và tình yêu trong gia đình. Biết bao gia đình tan vỡ, biết bao xáo trộn trong gia đình, tất cả ấy đều phát xuất từ sự ích kỷ của con người.

Nhờ đức tin soi dẫn, người tín hữu Kitô sống bậc vợ chồng và đời sống gia đình sẽ thấy được giá trị chóng qua của tiền bạc, của cải trần thế. Họ nên thánh bằng cách thực thi nhân đức khó nghèo qua việc chia sẻ yêu thương giữa mọi thành phần trong gia đình cũng như với mọi người chung quanh.

Tác giả Lm. Minh Anh, TGP. Huế (Nguồn: D. WAHRHEIT)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!