„Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin
vâng như lời thiên thần truyền“ (Lc 1, 38)
Vâng lời là một nhân đức
luôn được đề cao. Khi còn nhỏ trong gia đình chúng ta luôn được dạy
phải vâng lời người lớn, ông bà, cha mẹ là biểu lộ lòng thảo hiếu, là
niềm tự hào của cha mẹ, là hạnh phúc của gia đình. Lớn lên đến trưởng
học, phải vâng lời thầy cô giáo, nơi xứ đạo, nơi các hội đoàn Phật tử, Tin
Lành, Cơ Đốc v.v… v.v…
Ngoài xã hội chúng ta cũng
được truyền dạy về sự vâng lời trong trật tự trên đường đi, nơi phố chợ,
trong rạp hát v.v… Vâng lời còn là kỷ luật để giúp cho cuộc sống được
hài hòa ổn định. Không có sự vâng lời mọi sinh hoạt, mọi trật tự
xã hội sẽ bị đảo lộn, thế giới sẽ rối loạn không bình an, cuộc
sống của mọi người sẽ căng thẳng, xáo trộn.
Ngày nay con người quá sức kiêu
ngạo nên không tôn trọng sự vâng lời, không kính trọng những người làm việc
trong chính phủ để họ chu toàn vấn đề an dân, cho dân giàu nước mạnh. làm xáo
trộn nền văn hóa lịch sự, văn hóa xã giao của xã hội. Đại dịch corona 19 xuát
phát từ Wu-han lan tràn khắp toàn cầu, mà theo luật vệ sinh cho từng cá nhân và
cho xã hội, khi ra đường phải vâng lời đeo khẩu trang, phải giữ khoảng cách xa
nhau 1m50 … nhưng nhiều người đã không thi hành mà còn rủ nhau đi biểu tình chống
đối.
Các tổ chức, các đoàn thể, các đảng
phái chính trị, quân đội v.v… đều chú trọng đến sự vâng lời, thì
mọi công việc mới được hài hòa và thi hành nghiêm chỉnh. Sự vâng lời
trong quân đội được thi hành tuyệt đối nghiêm chỉnh, đó là là „kỷ luật
sắt“. Nhờ kỷ luật như thế, hàng ngũ quân đội mới có thể giữ gìn đất nước của
họ.
Trong các dòng tu của Giáo Hội Công Giáo, sự vâng
lời là một trong ba điều điều thề hứa trước mặt Thiên Chúa và trước cộng
đoàn dân Chúa, khi các chủng sinh trở thành linh mục trong Thánh Lễ truyền chức.
Điều này rất quan trọng, là thước đo đạo đức của họ.
Trên đời này có rất nhièu mẫu
gương tuyệt vời về sự vâng lời. Nhưng trước hết, trên hết, tuyệt vời
nhất và trọn hảo nhất đó là mẫu gương vâng lời của chính Chúa Giêsu
Mầu nhiệm nhập thể là mẫu gương vâng lời đầu tiên của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã vâng lời Đức Chúa Cha và đã thi hành điều đó. „Đức
Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế“. (Pl. 2, 6-7). Để
thực hiện chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã sai chính con
một Ngài là Đức Giêsu xuống thế, nhập thể trong lòng một trinh nữ nhân
hậu tràn đầy ơn Chúa.
Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha Người lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.“ (Pl.
2, 8) vâng phục quả nhiên đòi hỏi phải có nghị lực và cố gắng. Chúa
Giêsu trước khi thi hành sứ vụ quan trọng và cao cả nhất, Ngài cũng
bị chao đảo, dằn vặt, cầu xin Chúa Cha có thể miễn cho sự vâng lời
không. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm
theo ý con, mà làm theo ý Cha." (Lc. 22, 42). Và sự chao đảo sợ hãi
đến nỗi „mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất“ (Lc. 22, 44).
Chúa Giêsu đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, là như thế đấy. Sự vâng
phục của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho chúng ta và
là mẫu gương vâng lời trọn hảo mà chúng ta cần noi theo. Chúng ta cầu
xin Chúa giúp chúng ta học được bài học vâng phục nơi Chúa Giêsu và
Mẹ Maria và đem áp dụng trong đời sống. Dù sự vâng phục sẽ phải trả
giá bằng đau khổ nhưng chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho chính bản
thân chúng ta và cho mọi người.
Sự vâng lời cao trọng là
dường nào. Chúng ta vừa mừng trọng thể biến cố lễ truyền tin. Trong
bài Tin Mừng chúng ta được nghe lời của Đức Mẹ: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi
xin vâng như lời Thiên thần truyền". (Lc. 1, 38). Một lời nói
ngắn gọn nhưng đã gói trọn tâm tình vâng phục tuyệt đối của Đức Mẹ.
Lời nói „xin vâng“ của Đức Mẹ
chắc chắn không phải là lời nói đơn giản, vì Đức Mẹ biết rõ rồi
đây sẽ phải đối diện với nhiều nghịch cảnh, khó khăn. Cuộc đời sẽ
có những lo toan vất vả, những phiền muộn và cả những đau đớn phải
gánh chịu như tiên tri Simeon đã từng báo trước: “ Thiên Chúa đã đặt cháu bé này
làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu
hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người
sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." (Lc. 2, 34-35).
Thế nhưng, Đức Mẹ đã nói „xin
vâng“ nghĩa là Đức Mẹ sẵn sàng chấp nhận tất cả những gì
sẽ xẩy đến, cả những đau khổ mà Đức Mẹ sẽ phải gánh chịu. Chỉ
một lần nói xin vâng nhưng Đức Mẹ đã sống cả cuộc đời xin vâng cho
đến lúc được an nghỉ. Còn buồn
phiền lo lắng nào hơn khi bụng mang dạ chửa, đứa con cưu mang sắp sửa
chào đời mà Thánh Giuse không tìm được một chỗ tương đối thuận tiện
cho Mẹ Maria sinh con, để cuối cùng phải chịu giá rét thiếu thốn trong
chuồng bò. Đức Mẹ đã âm thầm „xin vâng“ không nửa lời than trách và
chỉ ghi nhớ những sự việc đó trong lòng. „Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ
mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng“ (Lc. 2, 19).
Rồi khi con trẻ chưa đủ lớn
Đức Mẹ đã phải ôm Hài Nhi cùng Thánh Giuse lặn lội đường xa đem con
trốn sang nước láng giềng Ai Cập để bảo toàn tính mạng cho con trẻ.
Đường xa vạn dặm mà phương tiện chỉ có một con lừa giúp mang hành
lý. Hành trình gian truân như thế Đức Mẹ vẫn vui lòng „xin vâng“.
Trở về Nazareth gia đình nhỏ
bé sống trong ân sủng tình yêu của
Thiên Chúa. Đức Mẹ đã một lòng „xin
vâng“ cùng với Thánh Giuse xây dựng một gia đình thánh thiện chan hòa hạnh phúc.
Tâm tình „xin vâng“ cuối cùng của Đức Mẹ mới thật trọn vẹn khi cùng
đau khổ với con mình bị hành hạ, bị đóng đinh. Một lưỡi gươm đã đâm
thâu tâm hồn Đức Mẹ đúng như lời tiên tri Simeon loan báo. Còn lời „xin
vâng“ nào đẹp hơn khi Đức Mẹ chấp nhận lời trăn trối của Chúa Giêsu
trước khi trút hơi thở cuối cùng : "Thưa Bà, đây là con của Bà." Rồi
Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." (Ga. 19, 26-27).
Elisabeth Nguyễn (12.2021)