Chuyên đề:
SỨC MẠNH TÌNH YÊU
do Linh Mục Tiến Sĩ
Tâm Lý
Peter Lê Văn Quảng phụ
trách
Kính
mời theo dõi video tại đây:
https://youtu.be/43SRalBVdkE
Mối
tình cô gái Ukraine (Leyna) và chàng trai Việt (Hà)
Tôi và anh quen
nhau tại KF. Chúng tôi lấy nhau và sinh được 2 con tuyệt vời. Con trai là
Andray và con gái là Maya. Lúc đầu mẹ tôi phản đối kịch liệt việc lấy chồng Việt
của tôi, lý do vì chồng tôi Hà là người Việt Nam bán hàng ngoài chợ, và anh hơn
tôi đến 16 tuổi. Nhưng mặc cho sự phản đối của mẹ, chúng tôi vẫn lấy nhau và
cùng chung sống với nhau suốt 8 năm trời trong hạnh phúc. Chồng tôi rất yêu lũ
trẻ và sẵn sàng giúp tôi làm mọi việc trong nhà. Cuộc sống xem ra rất an bình
và hạnh phúc. Bỗng một ngày kia Hà nhận được tin bố ốm nặng, có thể không qua
khỏi, nên anh lập tức bay về Việt Nam. Một thời gian sau, anh gọi điện sang và
bảo mẹ con tôi sang Việt Nam với anh. Thật ra, tôi không muốn đi cho lắm vì đường
xa mà hai con còn quá nhỏ. Con trai tôi 6 tuổi, còn con gái mới có 1 năm 4
tháng tuổi. Nhưng Hà động viên tôi rất nhiều và nói chỉ ở Việt Nam vài tháng
thôi, chủ yếu là anh muốn giới thiệu mẹ con tôi với gia đình và họ hàng bên nội.
Thế là tôi quyết định lên đường mang theo 2 con mà lòng không hề nghĩ đến những
gì đang chờ đợi mình phía trước. Ngày tôi đến Việt Nam thì bố chồng đã mồ yên mả
đẹp. Ngày đầu ở nhà chồng, chúng tôi đã đưa 2 con đi thăm mộ ông nội. Nghĩa địa
nằm ngay gần nhà, nhưng thực sự mà nói nó khác xa với những hình ảnh quen thuộc
của những nghĩa trang ở Ukraine.
Quê chồng tôi là
một ngôi làng gồm khoảng 400 nóc nhà, nằm không xa thủ đo Hà Nội. Tuy nhiên ở
đó không có đường ống dẫn khí đốt. Mọi người nấu ăn bằng bếp rạ, chỉ có một số
gia đình khá giả mới nấu ăn bằng bình gas.
Làng mạc ở Việt
Nam cũng có nhiều điểm giống làng quê ở Ukraine, chỉ có điều đường sá không trải
nhựa mà đổ bằng bêtông, có lẽ bêtông chịu nắng tốt hơn so với nhựa đường. Chung
quanh mỗi ngôi nhà đều có rãnh thoát nước. Lúc đầu tôi không hiểu tại sao phải
làm như vậy. Sau đó tôi đã hiểu vì vào mùa mưa dù có rãnh thoát nước, nhưng nhiều
lúc vẫn phải lội nước đến tận đầu gối, và khó chịu nhất là áo quần giặt xong phải
phơi cả tuần cũng chẳng khô. Ngày thứ hai ở nhà chồng, Hà đột ngột tuyên bố rằng
chúng tôi sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Hành động của anh làm tôi hết sức ngỡ
ngàng vì anh tự quyết định mà không hề bàn với tôi một tiếng. Tôi không thể ngờ
rằng người chồng đã từng chung sống suốt 8 năm trời lại có thể xử sự với tôi
như vậy. Ở Việt Nam, anh đã trở thành một con người khác hẳn. Anh hầu như không
còn thân thiết trò chuyện với tôi như xưa, và thường tự quyết định mọi thứ kể cả
những việc có liên quan trực tiếp đến tôi và các con tôi. Dù rất buồn trước sự
thay đổi của Hà, nhưng trong một giai đoạn nào đó, tôi đã buộc mình phải chấp
nhận điều đó, vì dù không muốn, tôi cũng không còn con đường nào khác vì không
còn tiền để quay về. Dù sao, trong thâm tâm tôi vẫn còn hy vọng sẽ thuyết phục
được Hà cho mẹ con tôi trở lại Ukraine.
Thật ra, không
thể nói rằng mọi người không tốt với tôi, nhưng có quá nhiều khác biệt trong
cách sống giữa người Việt Nam và người Ukraine, chẳng hạn tôi không thể hiểu: tại
sao người Việt Nam có thể sống được mà không cần đến các sản phẩm như sữa, bơ.
Bò ở Việt Nam nuôi để chỉ lấy thịt, vì vậy thâm chí người Việt Nam chẳng hề có
khái niệm về bơ, sữa hay phó mát. Con gái Maya của tôi vẫn quen ăn cháo sữa, vì
vậy tôi đã phải mua sữa đặc có đường hoặc mua sữa đậu nành để nấu cháo cho con.
Mẹ chồng tôi không thể hiểu nổi khi thấy tôi cho sữa vào cháo.
Với nhà trẻ ở Việt
Nam cũng là một vấn đề khó hiểu với tôi: mới 5 giờ sáng đã phải đưa con trẻ đi,
và trước khi đưa đi phải cho con trẻ ăn sáng ở nhà. Lúc 10 giờ phải đón trẻ về
cho ăn và cho ngủ trưa ở nhà. Các lớp được phân chia không theo lứa tuổi mà
theo nguyên tắc ai ghi danh trước vào trước. Vì vậy, trong một lớp có cả những
đứa trẻ mới sinh cùng với những đứa trẻ 5 tuổi. Cửa sổ các phòng không đóng bao
giờ. Cánh cửa ra vào cũng không có luôn. Trẻ sơ sinh thì nằm trên chiếu được trải
xuống sàn nhà, còn lũ lớn hơn thì chạy lăng quăng chung quanh. Nói chung có người
trông hộ con trẻ để bố mẹ đi làm ngoài đồng là tốt lắm rồi.
Thời gian đầu, mọi
người định dạy tôi đi làm ruộng, nhưng tôi phải thú thật rằng chẳng hề có khái
niệm gì về công việc nầy. Tôi cũng đã từng cùng mọi người trong gia đình nhà chồng
ra đồng cấy lúa, nhưng đến khi biết rằng dưới làn nước bùn đỏ, còn có cả những
con đĩa nữa thì tôi phát hoảng. Mọi người thông cảm không bắt tôi xuống ruộng nữa
mà bảo tôi học xử dụng máy suốt lúa, nhưng khi thấy tôi làm chẳng ra hồn khiến
mọi người phát chán. Mọi người trong gia đình cũng như họ hàng nhà chồng tỏ rõ
vẻ thất vọng vì sự vụng về trong công việc đồng áng của tôi. Bù lại thì sự hiện
diện của tôi cũng phần nào làm phong phú đời sống dân làng, nhất là trong công
việc bếp núc. Người Việt Nam chỉ quen ăn khoai tây nấu canh, vì vậy mọi người rất
ngạc nhiên trước món ăn khoai tây nghiền do tôi làm ra, khi nếm thử ai cũng
khen ngon. Món bánh xèo truyền thống của người Ukraine cũng được đón nhận nhiệt
tình. Mọi người gọi đó là món bánh mì ngọt. Tôi cũng đã dạy cho mọi người làm một
số món ăn như món beefsteak, thịt băm viên, món bánh xèo nhân xoài do tôi sáng
tạo xem ra ngon miệng nên ai cũng thích ăn.

Ước
muốn trở về Ukraine.
Hà tìm được việc
làm ở Hà Nội. Anh bỗng dưng sinh chứng nghiện cờ bạc. Bao nhiêu tiền làm ra đều
nướng hết cho trò chơi nầy. Khi còn ở Ukraine tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy.
Mẹ chồng tôi không biết điều nầy nên nghĩ rằng tôi giữ hết tiền luơng của anh.
Từ đó bà bắt đầu khó chịu với tôi. Càng ngày cuộc sống càng nên tồi tệ đến mức
ngột ngạt. Con trai của tôi dù mới 6 tuổi nhưng cũng phần nào hiểu được những
gì đang xảy ra. Có lần nó bảo mẹ để dành tiền để về lại Ukraine. Tôi chỉ còn biết
thở dài thương con vì vé may bay quay về cho 3 mẹ con ít nhất cũng phải 2 ngàn
đô trong khi trong tay không có nổi 1 trăm đô. Con trai tôi hứa sẽ kiếm tiền
cho mẹ. Những ngày sau đó, nó tự động đi câu cá, hái trái cây, nhặt vỏ chai ve
đem đi bán để mong kiếm được chút ít tiền mang về cho mẹ. Tôi không đủ can đảm
để tâm sự hoàn cảnh thật của mình cho mẹ tôi. Nhưng có một lần khi không còn có
thể chịu nổi nữa, tôi đã viết một bức thư cho người bạn gái Tania của tôi, và
cô nầy đã kể lại mọi sự cho mẹ tôi. Người nhà và bạn bè tôi bắt đầu tìm mọi biện
pháp để giúp mẹ con tôi trở về, thậm chí đã phải nhờ bộ ngoại giao can thiệp
qua đại sứ quán Việt Nam ở KF. Vào một ngày kia, có một công an đến nhà muốn điều
tra hoàn cảnh mẹ con tôi. Vì anh nầy không biết tiếng Nga, còn tôi thì không biết
tiếng Việt, nên chồng tôi chỉ nói những gì có lợi cho anh. Có một lần, tôi đã bỏ
trốn nhà mang theo 2 đứa con và một ít quần áo, nhưng rồi không biết đi về đâu.
Giữa lúc bơ vơ, tôi gặp một người đàn ông tốt bụng, sau khi hỏi han tình cảnh,
biết tôi là người Ukraine, ông đã cho 3 mẹ con tôi ăn, sau đó đưa 3 mẹ con tôi
đến đồn công an trình báo nhờ can thiệp. Chồng tôi buộc phải đến đón chúng tôi
về, kèm với lời cảnh báo của công an: sẽ không để chồng tôi yên nếu còn xảy ra
sự việc như thế. Sau lần đó, Hà không chỉ lạnh nhạt với tôi mà còn cả với các
con tôi nữa. Có lúc cả nhà ăn cơm mà chẳng thèm gọi mẹ con tôi, một người chị
trong nhà thấy thương tâm, nên mang đồ ăn đến cho chúng tôi.
Cuối cùng thì dịp
may cũng đến, ông trưởng phòng đại sứ quán Ukraine ở Hà Nội đã đến tận nhà thăm
mẹ con tôi. Được dịp tôi đã kể hết cho ông nghe về tình cảnh của mình, kể cả những
hiểu lầm và những đối xử tệ bạc của nhà chồng đối với 3 mẹ con chúng tôi. Ông
nói: đại sứ quán hiện không có tiền để giúp đỡ chúng tôi, nhưng hứa sẽ giúp đỡ
bằng mọi cách có thể. Lần sau đó, khi ông đến, ông mang theo rất nhiều thứ như
bột giặt, xe đạp cho con trai tôi, các loại đồ chơi, kẹo bánh, nước ngọt, thậm
chí ông còn cho tôi tiền nữa để tạm chi tiêu, chỉ có một điều: sau khi ông về,
tôi lại cảm thấy cay đắng hơn bao giờ hết: tôi không phải là một đứa ăn mày vậy
mà đã phải ngửa tay nhận từ một người tôi chưa từng quen biết những thứ nhỏ nhặt
cần dùng.

Cuộc
trở về của Maya.
Những ngày sau
đó, ông trưởng phòng đại sứ quán đã mở một chiến dịch vận động quyên tiền trong
cộng đồng người Ukraine đang ở Việt Nam để giúp đỡ 3 mẹ con tôi. Ở Ukraine gia
đình tôi cũng tìm mọi cách để góp tiền gởi sang cho tôi. Cuối cùng nhờ sự giúp
đỡ của mọi người, chúng tôi đã có đủ tiền mua vé may bay về Ukraine. Gia đình
chồng tôi tỏ ra khá hờ hững với việc mẹ con chúng tôi quay trở về. Có thể nói họ
còn thậm chí đã mừng vui vì thoát được một cô con dâu vô dụng như tôi. Sau 11 tháng trời sinh sống ở quê chồng, tôi và con trai
tôi bay về Ukraine, còn con gái Maya phải để lại cho chồng nuôi theo quyết định
của tòa án ly dị ở Việt Nam. Điều đó làm cho tôi, một người mẹ còn quá trẻ chưa
có kinh nghiệm nhiều phải đau khổ không nguôi vì không biết đến bao giờ mới gặp
lại đứa con gái bé bỏng của mình. Sự
dằn vặt đeo đuổi tôi suốt 3 năm trời, dù tôi biết gia đình chồng sẽ không ngược
đãi cháu, nhưng dầu sao con còn quá nhỏ mà sống xa mẹ cũng là một điều bất hạnh.
Bỗng một ngày
kia, Hà gọi phone cho tôi báo tin: anh ta sắp cuới vợ mới và vợ sắp cuới của
anh ta đang mang thai. Anh ta nói cho phép tôi đón Maya về nhưng với một điều
kiện phải đưa cho anh ta 3 ngàn đô. Mặc dù đã từ lâu tôi không còn chút tình cảm
nào vớ Hà nữa, nhưng vẫn hết sức bất ngờ vì không bao giờ nghĩ anh ta có thể trở
nên ích kỷ đến như vậy. Thế là tôi lại phải đi xin tiền khắp họ hàng, bạn bè một
lần nữa. Mỗi người cho tôi một ít với khả năng của họ. Gia đình tôi thuộc dạng
nhà nghèo nhưng mỗi người một ít, kết quả tôi cũng đủ số tiền để mua vé máy bay
đi và về. Tuy nhiên tôi không hề tiết lộ với Hà về điều nầy, mà vẫn hứa là sẽ nộp
đủ 3 ngàn đô như anh ta đòi hỏi. Khi tôi vừa bước
vào nhà, mẹ chồng tôi bị sốc và ngã gục dưới chân tôi. Bà có lời xin lỗi, nước
mắt bà chảy đầm đìa trên khuôn mặt già nua, vì sau khi tôi rời Việt Nam bà đã
hiểu ra rằng người có lỗi không là tôi mà là Hà. Người con dâu mới
không giúp gì được mẹ chồng, thậm chí bà còn phải san sẻ số tiền lương ít ỏi của
bà cho con trai và con dâu. Mọi việc trong nhà bà vẫn phải tự mình làm hết dù
bà đã 90 tuổi. Mẹ chồng tôi đã hiểu ra rằng giữa tôi và bà chỉ có những khác biệt
về văn hóa. Giả như không có sự thay đổi của chồng tôi, biết đâu tôi và bà đã
trở thành những người thân thiện trong gia đình.
Hà
có hỏi tôi số tiền như tôi đã hứa, nhưng tôi buộc phải nói dối với anh ta rằng
tôi sẽ giao cho anh khi tôi đến sân bay khi đã chắc chắn rằng con gái tôi sẽ
cùng tôi 100% được quay về lại Ukraine. Sau khi 2 mẹ con tôi đã làm đủ mọi thủ
tục và được vào bên trong an toàn, tôi vẫy tay chào anh từ biệt, Hà còn réo gọi
hỏi tôi: Leyna tiền đâu?
Bây giờ tôi đã
thật sự hạnh phúc bên 2 đứa con mình. Andray đứa con trai rất ham học, còn Maya
đứa con gái đã quen với nhà trẻ mới. Chẳng mấy
người biết rằng tôi đã từng trải qua một cuộc hôn nhân đầy những nước mắt và
cay đắng chỉ vì những khác biệt quá nhiều về văn hóa và chủng tộc.

Trẻ
cậy cha, già cậy con.
Câu tục ngữ nầy
cho thấy nét văn hóa độc đáo của người Việt Nam chúng ta. Khi còn trẻ, con cái
sống dựa vào bố mẹ, vì thế bố mẹ trong thời gian nầy luôn muốn con cái phải
ngoan ngoãn nghe lời chỉ giáo của bố mẹ. Bố mẹ Việt Nam nào, dù giàu hay nghèo
cũng muốn con cái mình chịu khó học đến nơi đến chốn. Điều đó có nghĩa là bố mẹ
sẵn sàng chấp nhận gian khổ để con cái mình có cơ hội học thành tài. Bố mẹ nào
cũng mong ước con cái mình trở thành những bác sĩ, luật sư hay kỹ sư. Đó cũng
là lý do đã khiến bố mẹ tìm mọi cách để đi vượt biên dẫu phải gặp biết bao nguy
hiểm với hy vọng: nếu được may mắn con cái mình sẽ có dịp học hành tiến thân
như bao nhiêu gia đình khác. Vì thế, bố mẹ Việt Nam nào khi mới sang định cư ở
đất nước thứ ba, cũng sẵn sàng chấp nhận làm việc vất vả có khi phải cày cả 2
công việc, để có thể lo cho con mình có tạm đủ mọi phương tiện cần thiết cho
công việc học hành của chúng. Không gì khiến bố
mẹ Việt Nam cảm thấy hạnh phúc và vinh dự hơn là thấy con mình chịu khó học
hành đến nơi đến chốn, dẫu cho chính mình phải lam lũ vất vả nhiều. Những giọt
nước mắt vui mừng của bố mẹ hiện rõ trên nét mặt khi nhìn thấy con mình ra trường
lần lượt với những văn bằng cử nhân, thạc sĩ, và có khi còn có cả tiến sĩ nữa. Nhìn thấy sự hy sinh vất vả của bố mẹ, nhiều sinh
viên Việt Nam dù khó nhọc cũng luôn cố gắng để mang lại cho bố mẹ một niềm an ủi
lớn lao, với hy vọng đáp lại phần nào những hy sinh cực khổ mà bố mẹ đã dành
cho con cái. Và một khi con cái đã thành tài rồi thì dĩ nhiên với nền giáo dục
và văn hóa của người Việt Nam, con cái ước mong được đáp đền những ân tình lớn
lao mà bố mẹ đã dành cả một đời hy sinh cho mình. Chính vì thế, khi về già, bố mẹ cảm thấy còn
gì hạnh phúc hơn là sống bên cạnh con cái và cháu chắt mà suốt một đời mình đã
giáo dục, gầy dựng và lo lắng cho chúng để chúng có được mọi sự như ngày hôm
nay.
Người già rất sợ
cô đơn. Dĩ nhiên, người Việt Nam chúng ta cũng không tránh khỏi cảm giác sợ hãi
nầy. Hơn nữa, với văn hóa chú trọng đến chữ HIẾU của người Việt chúng ta, khi về
già, bố mẹ ước mong có con cái phụng dưỡng cũng như ngày xưa bố mẹ đã vất vả lo
lắng cho con mình thế nào, thì bây giờ bố mẹ cũng muốn con cái lo lắng cho mình
như vậy. Chính vì thế, chúng ta mới có câu tục ngữ: TRẺ
CẬY CHA, GIÀ CẬY CON. Với bố mẹ
Việt Nam, không gì đau buồn hơn là khi về già bị con cái đem bỏ mình vào viện
dưỡng lão. Tuy không nói ra, nhưng từ thâm tâm họ cảm thấy rất đau buồn vì sự
cô đơn trong viện dưỡng lão, nhưng điều đau buồn hơn là họ cảm thấy con cái phụ
bạc, bất hiếu với bố mẹ, mà ngay cả với nền văn hóa tây phương, họ cũng cảm thấy
đó là một điều đáng buồn.
Sau đây, tôi muốn
ghi lại một câu chuyện mà mẹ thánh Thérésa thành Calcutta đã kể lại khi mẹ đi đến
nước Anh:
Một hôm tôi được dẫn đi thăm nhà thương tư
dành cho người già ở Anh quốc. Các phòng ở đây rất sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi,
máy móc tối tân vào loại nhất. Các y tá được huấn luyện chu đáo và rất lịch sự
với các người già, nhưng có một điều làm tôi ngạc nhiên không ít, và tôi hỏi
bác sĩ giám đốc:
- Thưa bác sĩ, tại sao tất cả những người
già này đều quay nhìn ra cổng, mỗi khi có người bước vào nhà thương vậy?
Nghe câu hỏi
này, vẻ lúng túng hiện rõ trên khuôn mặt bác sĩ giám đốc.
Ông đáp:
- Thưa, tại vì bao giờ họ cũng mong đợi một
người thân, một người bà con đến thăm viếng họ, nhưng mà hầu như chẳng có ai đến.
Đối với những
người tây phương mà chúng ta còn thấy rõ nét mặt buồn trên khuôn mặt của những
người già sống trong viện dưỡng lão, mặc dù họ được chu cấp đầy đủ mọi thứ cần
dùng, nhưng trong thâm tâm họ vẫn còn thấy thiếu một cái gì mà họ vẫn luôn
trông ngóng. Đó phải chăng là họ mong đợi tình cảm
gia đình, một tình cảm thiêng liêng mà con người không thể thiếu vắng cho dẫu
chung quanh họ vốn có nhiều người khác. Riêng
đối với nền văn hóa và giàu tình người của người Việt Nam, con cái cần phải chú
trọng đặc biệt đến bố mẹ lúc về già. Tuy không nói ra, nhưng bố mẹ Việt Nam nào
cũng mong con cái thảo hiếu và phụng dưỡng bố mẹ theo phong tục tập quán của
người Việt Nam, nghĩa là ước mong cùng con cái chung sống trong niềm an vui và
hạnh phúc ở tuổi về già.
Khi tôi còn học ở
Minnesota, USA, trong số giáo dân của tôi, có một cặp vợ chồng đang ở tuổi
trung niên. Hai anh chị nầy có 2 đứa con: một trai và một gái. Khi hai đứa con
lớn lên, con trai lấy vợ tàu, con gái lấy chồng tây. Vì hai vợ chồng còn trẻ và
rất gắn bó với nhau nên con cái muốn lấy tàu hay tây không thành vấn đề gì với
bố mẹ. Bỗng một ngày kia, đùng một cái, bà vợ lăn ra chết cách đột ngột. Ông chồng
hụt hẫng, không quen sống với cảnh cô đơn như vậy. Ông sinh bệnh trầm cảm, ngày
càng ủ rũ, nhưng không thể về sống chung với con cái được, vì với văn hóa của
tây hoặc tàu, sống chung với bố mẹ một thời gian dài hạn là một vấn đề khó chấp
nhận được. Ông đau buồn, căn bệnh ngày càng thêm trầm trọng, mọi người nhìn ông
mà đau lòng.
Hôn
nhân khác biệt tôn giáo.
Chúng ta vừa
chia sẻ những khủng hoảng trong hôn nhân khác biệt chủng tộc, và bây giờ chúng
ta đi đến những khủng hoảng trong hôn nhân khác biệt tôn giáo.
Hôn nhân là một
vấn đề quan trọng đối với con người chúng ta, vì thế bố mẹ nào cũng rất quan
tâm đến vấn đề hôn nhân của con cái. Ai cũng muốn cho hôn nhân của con cái mình
có được hạnh phúc và rất đau buồn khi thấy hôn nhân của con cái mình đổ vỡ. Một
trong những lo lắng lớn nhất của bố mẹ là sợ con cái mình kết hôn với người
không cùng tôn giáo. Lý do là vì người công giáo không được phép ly hôn. Giáo
luật và giáo lý của người công giáo không cho phép ly dị. Có thể giáo lý của những
tôn giáo khác không giống như vậy. Chính vì thế, nếu bố mẹ là người công giáo,
họ rất lưu ý con cái mình trong vấn đề nầy, và luôn nhắc nhở con cái mình rất cẩn
thận trong vấn đề hôn nhân, vì chỉ có một lần lựa chọn mà không được thay đổi.
Đó chính là lý do cha mẹ người công giáo thường khuyên con cái mình nên kết hôn
với những người cùng tôn giáo vì họ muốn cả hai bên bảo đảm vấn đề nầy. Và đây chính là lý do đã khiến nhiều người hiểu lầm rằng
người công giáo thường ép người ta phải cải đạo trước khi kết hôn.
Thật ra, không
ai có thể ép ai được. Tôi không thể ép anh và anh cũng không thể ép tôi được nếu
chính họ không muốn. Chỉ có tình yêu của họ mới có thể hướng dẫn, mới có thể buộc
họ cùng nhau đi về một hướng để xây dựng hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho
nhau. Tình yêu luôn có một
sức mạnh phi thường có thể làm nên những phép lạ mà một con người bình thường
không thể làm được. Để hiểu rõ lý do tại sao bố mẹ người công
giáo luôn mong muốn con mình khi kết hôn nên lấy những người cùng tôn giáo, tôi
xin chia sẻ với các bạn câu chuyện tâm tình sau đây:
Vào năm 2010 tôi
được chuyển về nhà thờ thánh Phaolô nằm trong thành phố Tân Trúc (Hsinchu) Đài
Loan. Sau một tháng trời quan sát, tôi thấy giáo xứ nầy ngoài Đạo Binh Đức Mẹ
không có một sinh hoạt hội đoàn nào khác. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc thành lập một
vài hội đoàn để mang lại bầu khí sinh động cho giáo xứ. Đây là một hòn đảo truyền
giáo, số người đi lễ Chúa Nhật không đông, nên thường ít có những sinh hoạt hội
đoàn trong giáo xứ ngoại trừ Đạo Binh Đức Mẹ. Để có một thánh lễ rộn ràng,
trang nghiêm, sốt sắng, tôi nghĩ ngay đến việc thành lập một ca đoàn và sau
thánh lễ tôi phụ trách tập hát. Ngay ngày đầu tiên, ca đoàn tôi qui tụ được 13
người. Họ là những thành phần trung niên và có trình độ. Hầu hết họ xuất thân từ
đại học ra nên vấn đề ca hát với họ tương đối dễ dàng. Chính vì thế họ hát rất
hay. Một ngày kia, có một người từ một giáo xứ khác đến thăm cộng đoàn chúng
tôi, và họ nghe thấy ca đoàn hát rất hay nên họ
đề nghị tôi lập một liên ca đoàn cho thành phố nầy. Thành phố nầy có tất cả 10 nhà thờ công giáo, và
nếu qui tụ được cũng có một con số ca viên rất lớn. Tôi đồng ý ngay vì đó cũng
là ước muốn từ lâu của tôi. Ngày đầu tiên ra mắt, con số ca viên đếm được là 79
người, ngồi chật cả nhà thờ của tôi. Mọi người vui vẻ được gặp nhau và cùng
sinh hoạt với nhau. Ngay ngày đầu tiên, chúng tôi cho bầu ra một ca trưởng phụ
trách công việc chọn bài và tập hát, một ca đoàn trưởng phụ trách những sinh hoạt
ca đoàn, một thư ký và một thủ quỹ. Tôi là người làm linh hướng cho họ. Đây là
những thành phần nòng cốt để khi về các giáo xứ, họ có thể giúp giáo xứ họ củng
cố lại ca đoàn và tạo ra một bầu không khí thánh lể tươi trẻ và sốt sắng với hy
vọng lôi kéo được giới trẻ, vì hầu hết giới trẻ ở Đài Loan đều cảm thấy ngày
Chúa Nhật đi tham gia sinh hoạt ở các nhà thờ tin lành thì hấp dẫn hơn là đi lễ
ở các nhà thờ công giáo. Sinh hoạt của liên ca đoàn là: vào mỗi chiều Chúa Nhật
từ 2:00pm- 4:00pm. Ngày nào ca trưởng bận việc, không đến được thì tôi phụ
trách.
Sau gần một năm
sinh hoạt thì anh ca trưởng xin nghỉ vì lý do sức khoẻ. Rất may mắn, không bao
lâu sau đó, tôi tìm được một cô ca trưởng mới vừa đi du học âm nhạc ở Roma về.
Từ khi có cô nầy, bầu không khí trở nên khác hẳn, ca đoàn trở nên hăng hái hơn,
tươi trẻ hơn và cũng hát hay hơn trước. Mỗi năm họ trình diễn một lần, thường
là dịp Phục Sinh hoặc Giáng Sinh. Ngoài ra họ cũng phụ trách hát ở nhà thờ
chính toà vào những dịp lễ đặc biệt mà Đức Cha nhờ đến. Hàng năm họ cũng tổ chức
đi chơi xa 2 ngày một đêm. Thường thì đêm hôm đó, họ ngồi lại với nhau, cùng cầu
nguyện và cùng chia sẻ kinh nghiệm về cuộc sống cho nhau. Một lần kia, cô ca
trưởng chia sẻ nỗi niềm tâm sự của cô về những khó khăn cô gặp phải trong đời sống
hôn nhân của cô, đặc biệt là riêng vấn đề ca trưởng như một lời nhắn nhủ cho
đàn em của cô, những người còn đang độc thân để tiếp tục công việc học hành. Cô
nói: cái khó khăn lớn nhất trong đời sống hôn
nhân không phải là sự cách biệt về nghề nghiệp, về địa vị hay giàu nghèo mà là
sự khác biệt về tôn giáo. Chính vì sự khác biệt nầy mà quan niệm về nhân sinh,
về hạnh phúc và về cách sống là một khủng hoảng trầm trọng thật khó vượt qua. Cô tiếp tục nói: những khủng hoảng khác, với
trình độ cao và khả năng nhiều như chúng ta đang có, chúng ta có thể thắng vượt
một cách dễ dàng, vì cuộc sống chúng ta hoàn toàn không phải lệ thuộc kinh tế
vào một ai khác. Chúng ta có thể tự lập và chúng ta có thể mang lại cho cuộc sống
chúng ta một đời sống hạnh phúc cho chính chúng ta và gia đình chúng ta. Nhưng sự khác biệt về tôn giáo là một vấn đề nan giải thật
khó giải quyết. Cô lấy chính cái
kinh nghiệm về hôn nhân của cô ra nói: chồng cô là một người không là công
giáo, vì thế quan niệm về cuộc sống hôn nhân và gia đình khác hẳn với cô. Chồng
cô đi làm 6 ngày một tuần, chỉ được nghỉ vào ngày Chúa Nhật, nên chồng cô yêu cầu
cô: ngày Chúa Nhật phải ở nhà để gần gũi với chồng con, và yêu cầu đó xem là hợp
lý và chính đáng với những người không là công giáo. Nhưng với cô, ngày Chúa Nhật
cô muốn đi lễ để giúp ca đoàn hát trong thánh lễ, hơn nữa vì ngày thứ bảy không
có thánh lễ Chúa Nhật. Sau thánh lễ cô muốn giúp tập hát cho ca đoàn giáo xứ.
Sau đó về chuẩn bị bữa cơm trưa cho gia đình, và buổi chiều cô đi tập hát cho
liên ca đoàn. Cô cảm thấy đó là niềm vui và hạnh phúc của cô. Nếu người chồng của
cô là người công giáo thì không có gì trục trặc vì cả 2 cùng đi lễ, cùng đi tập
hát phục vụ cộng đoàn, và sau đó là đi ra ngoài cùng thưởng thức bữa ăn tối với
nhau thì thật là lý tưởng. Và đó không phải là hạnh phúc cho những đôi vợ chồng
có cùng tôn giáo sao? Nhưng ở đây vì 2 người
không cùng một tôn giáo, nên cả 2 tính toán theo quan điểm cá biệt của mình.
Chính vì thế đây là một vấn đề nan giải với họ, mà đã từ lâu họ không thể giải
quyết được. Và theo cô chia sẻ: có những đêm buồn quá, để khỏi kình
cãi, cô đã phải ra khỏi nhà đi lang thang trong các công viên đến 10 giờ tối mà
vẫn chưa muôn về nhà vì không muốn có những tranh cãi vô bổ. Từ những kinh nghiêm đó, cô muốn có lời nhắn nhủ gởi đến
cho đàn em của mình: khi kết hôn điều trước tiên phải chú ý là hãy tìm cho mình
một người có cùng chí hướng, cùng một tôn giáo. Mọi khó khăn khác, với
trình độ chúng ta, chúng ta có thể vượt qua một cách dễ dàng, nhưng sự khác biệt
về tôn giáo là một khó khăn rất khó vượt qua vì nó ảnh hưởng đến nhân sinh quan
của họ, và cũng từ đó rất dễ khiến chúng ta mất đi sự bình an và hạnh phúc
trong cuộc đời hôn nhân chúng ta.
Lm. Peter Lê Văn Quảng
Psy.D.
HẸN GẶP LẠI.