Tác giả Linh mục Trần Mạnh Hùng, STD.
Lý thuyết về luật tự nhiên hướng dẫn đời sống
luân lý cũng như những quyết định luân lý, đã xuất hiện khá lâu rồi trong tiến
trình tư tưởng Tây phương. Kể từ khi người Hy Lạp đầu tiên suy tư về triết học.
Trong tác phẩm của Aristote, Rhetoric and Ethics, (Tu Từ Học và Đạo đức học),
ta thấy có mô tả về thứ luật phổ quát này đang áp đặt cho con người.
Luật riêng là luật do mỗi cộng đoàn lập ra và
bó buộc tuân thủ cho những thành viên riêng biệt của nó, một phần thành văn và
một phần không thành văn. Luật phổ quát là luật tự nhiên. Bởi thực ra, như từng
người nhận thấy tùy theo cấp độ, có lẽ công bình hay bất công tự nhiên nào đó
đang áp đặt trên tất cả mọi người. (Aristotle, Rhetoric. Bk.1, ch.13,
1373b).
Cicero đề cập đến một thứ "luật trường cửu
và bất biến có giá trị cho mọi dân tộc và mọi thời, do Thượng Đế như người Thầy
và Đấng cai quản hết mọi người, đặt ra". (De Republica, bk. III, XXII,
33). Dẫu vậy, ông ta cũng đề cập đến "lề luật chính hiệu là lý trí chính
trực hòa hợp với thiên nhiên". Các tác giả hiện đại tin rằng người Hy lạp
đã đưa ra khái niệm về luật tự nhiên đã được thiết định và đặt nền tảng trên trật
tự tự nhiên bất biến, trong khi người La mã cho lý trí con người có chức năng
quan trọng, lớn lao hơn nơi luật tự nhiên và do vậy luật lệ sẽ uyển chuyển hơn. Ngày hôm nay mối phân chia
như trên vẫn còn hiệu lực.
Thuật ngữ "luật tự nhiên" ám chỉ những
cái nhìn về luân lý mà con người có thể phát hiện được dựa vào lý trí của mình,
mà không cần đến sự mặc khải của Thiên Chúa qua Thánh Kinh. Theo thần học luân
lý cổ truyền, luật luân lý tự nhiên là luật hướng dẫn hành vi con người, rút ra
từ chính bản tính con người, nhằm giúp con người đạt tới mục tiêu tối hậu tự
nhiên của họ, được lý trí tự nhiên nhận biết. Như thế có nghĩa: lý trí là trung
gian chủ quan duy nhất nhận biết luật tự nhiên đó. Nói cách khác, luật tự nhiên
là luật luân lý xuất phát từ bản tính con người và thụ tạo; luật ấy có thể được
lý trí con người nhận ra. Người ta cũng gọi đó là luật tự nhiên của Thiên Chúa
vì ta có thể truy ngược về nguồn gốc của chúng là chính ý muốn của Thiên Chúa:
Người đã tạo dựng nên thiên nhiên và bởi đó Người cũng muốn những qui luật rút
ra từ thiên nhiên ấy. Như thánh Phaolô đã đề cập
đến trong thư gởi các tín hữu thuộc giáo đoàn Rôma. Ngài viết:
“Dân ngoại
là những người không có luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những
gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có luật Mô-sê. Họ
cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm
họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho
mình là trái, khi thì cho mình là phải.” (Rm 2:14-6).
Vậy ở đây "tự nhiên" có nghĩa là:
1. Không siêu nhiên, không được thông tri bằng
con đường siêu nhiên;
2. Không thiết định hay không phải là kết luận
suy ra từ một mệnh lệnh của thẩm quyền lập pháp, như trong luật thiết định của
con người hay của Thiên Chúa;
3. Được tìm thấy nơi bản tính con người hay được
suy diễn từ bản tính con người.
Qua những lối giải thích như trên, ta có thể thấy
lý thuyết về luật tự nhiên có liên quan
đến đạo đức học tự nhiên nói chung; Luật tự nhiên, luật luân lý dựa theo bản
tính tự nhiên, đạo đức học tự nhiên và luân lý tự nhiên là những thành ngữ
tương đương với nhau.
Lý thuyết về luật tự nhiên có tầm quan trọng rất
cơ bản vì hai lý do như sau:
1. Trước hết, đó là nền tảng cho một trật tự
luân lý có tính phổ quát, hay là nguồn của sự khôn ngoan đạo đức mà các Kitô hữu
đang chia sẻ với tất cả mọi người, vì nó dựa trên chính thực tại mà ai ai cũng
có: đó là nhân tính và những điều kiện hiện sinh, chung cho hết mọi người.
2. Thứ đến, luật tự nhiên là biện pháp duy nhất
thích đáng để chống lại sự độc đoán của những quyền lực chính trị và lập pháp.
Đó là tòa chung thẩm cho con người nại tới để phản đối những luật lệ bất công
và thiên vị do các nhà lập pháp nhân loại đưa ra.
Chính Ulpian (d.228) đã giới thiệu từ “luật tự
nhiên” vào những danh từ đã có sẵn ở bộ luật dân sự [jus civile] và luật muôn
dân [jus gentium] do luật gia Gaius (c.160) đã san định. Theo Ulpian, luật tự
nhiên (jus naturale) là "luật hành xử chung cho mọi người và mọi sinh vật".
Do vậy, ông ta đã phục hưng điều người Hy lạp nhấn mạnh trên luật tự nhiên như
là điều thiên nhiên chỉ dạy cho muôn loài, nghĩa là luật tự nhiên được hiểu
trong phạm vi trật tự thiên nhiên. Điều này, có thể trái ngược với việc hiểu luật
tự nhiên như những gì lý trí chúng ta đòi thực hiện, sao cho phù hợp với những
chiều hướng vốn đặc thù của thân phận con người, nghĩa là luật tự nhiên được hiểu
theo phạm vi trật tự lý trí. Ta sẽ mô tả và nêu bật các chi tiết về những mối
khác biệt giữa hai cách hiểu về luật tự nhiên này.
I. LUẬT
TỰ NHIÊN VÀ TRẬT TỰ THIÊN NHIÊN
Theo sự hiểu biết về luật tự nhiên dưới nhãn
quan như vậy, thiên nhiên, bao gồm cả bản tính nhân loại giống như bản phác thảo
ý muốn của Thiên Chúa cho chúng ta. Ta sẽ biết lối hành xử chính trực qua việc
khám phá và tuân thủ các lề luật thuộc giới tự nhiên, đặc biệt nhấn mạnh đến
khía cạnh vật lý và sinh học của bản tính con người. Bản tính nhân loại bao hàm
một vài khả năng vật lý và sinh học, và những khả năng này có những mục tiêu, cứu
cánh rõ rệt để thực hiện, ví dụ khả năng ngôn ngữ (giúp cho con người có thể
thông tin liên lạc và trao đổi kiến thức với nhau), hoặc khả năng sinh lý (giúp
ta lưu truyền sự sống). Ta phải hành xử
sao cho xứng hợp với chúng. Tránh ức chế chúng. "Đừng hành động chống lại
tự nhiên".
Theo cách nhìn này, chức năng của lý trí là ghi
nhận và chấp nhận những khả năng tự nhiên cùng những mục tiêu của chúng. Vậy việc
ngừa thai nhân tạo là sai (theo nguyên tắc khách quan), vì nó ngăn chặn việc
thông ban sự sống qua hành vi giao hợp mà kết quả và mục đích của nó là sinh sản
làm nối dài hậu duệ. Những giáo trình hay sách giáo khoa luân lý cũ đã so sánh
bản tính nhân loại và những khả năng của nó như một bản thiết kế máy móc, trong
đó bản tính của chiếc máy (chúng ta) đòi buộc phải được hoạt động đúng cách
đúng kiểu, đúng mục đích đã được thiết kế. Nhiệm vụ của lý trí nhân loại là xem
xét đến "những gì đã được ban" cho bản tính nhân loại, nắm bắt cách sắp
đặt và mục tiêu, rồi mới thi hành những
mục tiêu của các "dữ liệu" thuộc bản tính nhân loại và tránh ức chế
chúng. Theo sự hiểu biết và giải thích như thế về luật tự nhiên, thì chúng ta
nhận thấy rằng điều đó không được uyển chuyển cho lắm, con người duy nhất chỉ
có một việc là khám phá ra những gì đã được thiết kế trong trật tự tự nhiên và
chiếu theo đó mà thi hành.
II. LUẬT
TỰ NHIÊN VÀ TRẬT TỰ LÝ TRÍ
Sự hiểu biết về luật tự nhiên như thế đã được nhiều tác giả suy diễn theo những kiểu
khác nhau. Vincent MacNamara mô tả luật tự nhiên như là ý thức của con người biết
phân biệt điều đúng khỏi điều sai quấy. Con người có thể vạch ra những đường hướng
cơ bản cho việc phân biệt này, bằng cách suy tư trên ý nghĩa cuộc sống của con
người. Làm người nghĩa là gì?
Timothy O'Connell nói đến khả năng của con người
và sự hiểu biết nhờ vào kinh nghiệm mà khám phá ra những gì xứng hợp với hạnh
phúc và sự triển nở con người của mình.
Riêng Richard Gula, trong cuốn "Họ nói gì về những chuẩn mực luân
lý", ông nói đến lương tâm như
là "Sự suy tư của lý trí trên kinh nghiệm nhân loại để khám phá ra giá trị
luân lý". Rõ ràng theo cách giải thích luật tự nhiên như thế này thì lý
trí, chứ không phải cơ cấu thể lý của những khả năng con người tự đảm nhiệm lấy
chính nó để trở thành tiêu chuẩn của luật tự nhiên. Trật tự sinh học và thể lý
hay những khả năng con người đóng vai trò cung cấp dữ kiện/dữ liệu và sáng soi
để con người nhờ lý trí mà tư duy [suy tư], nhằm thấu hiểu những gì mang lại hạnh
phúc cho họ với giá trị luân lý đích thực.
Tóm lại, theo một số triết gia và thần học gia,
luật tự nhiên không là tự nhiên - theo nghĩa là nó không thể bị đồng hóa với những
định luật sinh học và vật lý - và nó không là luật theo nghĩa nó không phải là
toàn bộ những mệnh lệnh đã được hệ thống hóa (nghĩa là đã được thiết định).
Cách chung, luật tự nhiên được xem như thứ luật cắm rễ sâu nơi bản tính con người, con người nhờ có năng lực sử dụng lý trí mà
suy tư trên bản tính của mình, để biết phân biệt điều hay lẽ phải khỏi điều sai
trái. (Ở đây tầm quan trọng của những chức năng thể lý và sinh học, cũng như những
mục tiêu của chúng bị xem nhẹ). Nhờ xem xét đến cái mẫu cuộc đời của mình, kiểu
cách con người mà chính mình muốn trở thành mà mỗi người có thể tìm ra lối hành
xử xứng hợp với chính bản thân, nhằm phát huy điều thiện hảo để cho mình được
triển nở.
Triết gia Augustine Fagothey nhận định như sau:
“Mỗi thụ tạo hướng về cứu cánh (mục tiêu tối hậu) của mình, nhờ hoạt động vốn
được bản tính hướng dẫn. Loài người, do vậy cũng không ra ngoài định luật trên,
bản tính nhân loại hướng dẫn họ hành động, và họ nhận ra rằng chính bản tính
này là phương thế hướng dẫn họ đi đến cùng đích, đó chính là ý nghĩa của luật tự
nhiên.”
Thánh Tô-ma A-qui-nô dường như đã tháp nhập cả
hai cách tiếp cận trên đây vào bài thảo luận của ngài về luật tự nhiên. Ngài
cho rằng "thuộc về luật tự nhiên những gì mà con người được sắp đặt cách tự
nhiên nào đó, và giữa những gì đó thật thích hợp cho con người hành xử theo lý
trí của mình." Luật tự nhiên được hiểu ở đây như là luật tự nhiên biệt chủng
(specific natural law) (x. Summa Theologiae, I-II, q. 94, a. 9). Ngài cũng cho
rằng luật tự nhiên có chung cho mọi loài, cách hiểu này xem luật tự nhiên như
luật tự nhiên thuộc loài (generic natural law) (x. S.T, I-II, q. 95, a. 4).
Theo
quan niệm như thế, thì trật tự tự nhiên (order of nature) được thông ban trực
tiếp từ Thiên Chúa, như vậy Ngài là đấng sáng lập ra luật ấy, nó cũng giả định
rằng: trật tự tự nhiên có phần vượt hẳn và ưu việt hơn trật tự của lý trí
(order of reason) được xuất phát trực tiếp nơi con người. Thánh Tôma đã giữ luận
điệu lập luận này khi giải quyết những vấn nạn liên quan đến luân lý tính dục.
"Lý trí bao hàm những vấn đề đã được định đoạt bởi tự nhiên… do đó, một
khi cung cách hành động của chúng ta đi nghịch lại vơí những gì đã được sắp đặt
bởi tự nhiên, thì điều ấy sẽ trở nên nghiêm trọng và ghê tởm." (x. S.T.,
II-II, q. 154, a. 12)
Tính cách nước đôi trên đây đã khiến Charles
Curran kết luận trong chương "Luật tự nhiên và thần học luân lý"
trong tác phẩm "Những vấn đề hiện đại trong thần học luân lý" của
ông:
“Luật tự
nhiên theo cách hiểu của thánh Tô-ma, dao động tuỳ lúc giữa trật tự tự nhiên và
trật tự lý trí. Chung chung ngài có chiều hướng thiên về sự trổi vượt của lý
trí trong quan điểm về luật tự nhiên của ngài. Dầu vậy, nơi thánh nhân, đã có
chiều hướng dứt khoát trong việc xác định những đòi hỏi của luật tự nhiên với
những tiến trình sinh học và vật lý.”
III. NỘI
DUNG LUẬT TỰ NHIÊN
Ta dễ thắc mắc tại sao có nhiều bất đồng ý kiến
về nội dung luân lý nếu đã có luật tự nhiên vốn chung cho muôn loài. Luật tự
nhiên bao hàm những chỉ thị mang nhiều mức độ quan trọng khác nhau, vì sự an
sinh cho cá nhân mỗi người và cho cả cộng đồng. Chỉ thị càng cơ bản bao nhiêu
thì dễ được nhận ra bấy nhiêu, ngược lại, những chỉ thị rút ra từ bản tính con
người nhờ vào lý trí mà thiếu tính chất cơ bản thì vẫn còn chỗ để bị hiểu lầm
và gây bất đồng ý kiến. Thật ra, có vài vị theo cách phân chia của Thánh Tô-ma
để liệt kê ra 4 cấp bậc của những chỉ thị như thế này:
1. Nguyên tắc luân lý thứ nhất, theo lý trí thực
tiễn, được tìm thấy nơi tính chất của sự thiện, nghiã là sự thiện thì đều được
mọi người tìm kiếm. Từ đó suy ra, "Điều thiện nên làm và được cổ vũ, còn
điều xấu cần phải tránh xa" (Do goods and avoid evils). Những soi dẫn khác
của luật tự nhiên đều được đặt nền tảng trên sự soi dẫn hay nguyên tắc cơ bản
này.
2. Những nguyên tắc chung hay tổng quát khác
thì cũng được đặt trên nền tảng của nguyên tắc thứ nhất trên đây - có thể được
liệt kê như sau: tự bảo tồn hay bảo vệ sự sống của mình, bao gồm cả việc bảo
toàn thân xác cũng như sự kính trọng trong xã hội; tự hoàn thiện, bao gồm cả việc
mở rộng kinh nghiệm và kiến thức cũng như cải thiện các điều kiện sống; sinh sản
và giáo dục con cái; quan tâm và chăm lo cho sự phát triển tinh thần và vật chất
của đồng bào mình; tính đồng đội trong xã hội để thăng tiến công ích; dấn thân
phục sự tốt lành và các giá trị ở mức tuyệt đối và siêu việt, nhất là kết hợp với
Thiên Chúa qua việc thờ phượng Người; tránh vi phạm đến những người sống chung
quanh ta.
3. Ở cấp độ thứ ba, ta có những kết luận phát
xuất từ một tiến trình lý luận phức tạp hơn. Ví dụ như kết luận về luân lý tính
của việc chấm dứt đau đớn cho bệnh nhân [the morality of mercy killing], việc
thụ tinh nhân tạo bằng ống nghiệm, việc đa thê [polygamy] v.v…
4. Công việc khó khăn nhất là việc ứng dụng những
nguyên tắc rút ra từ luật tự nhiên cho những nố riêng cụ thể, từ sự suy nghĩ của
lý trí, thế nào là con người, để chúng ta có một sự chọn lựa cho nó xứng hợp
hơn.
IV. NHỮNG
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THUYẾT LUẬT TỰ NHIÊN.
Đã có biết bao chống đối từ nhiều phía về luật
tự nhiên. Sigmund Freud (1856-1939) cho rằng vô thức điều khiển chúng ta chứ
không phải lý trí theo thứ quan niệm đã được thi vị hóa. Karl Marx (1818-1885)
nhấn mạnh đến những sức mạnh ngoại lai điều khiển ta và tạo ra những quyết định
nơi đời ta. Trong khi ấy, một số tâm lý gia [develomental psychologists] chủ
trương có những mẫu mực nơi con người vượt biên giới xã hội và địa dư, tỷ dụ
như các tâm lý gia: Jean Piaget, Erik Erikson, Lawrence Kohberg, cho nên những
lý thuyết gia về luật tự nhiên vẫn còn phải trả lời cho một vài vấn đề cấp
bách.
1. Trước tiên, điều mà thường được tham chiếu
khi bàn thảo về luật tự nhiên, đó chính là bản tính con người hay còn gọi là
nhân tính. Vậy nhân tính là gì? Nhân tính đó có cố định hoặc không bao giờ
thay đổi không? Nếu như bản tính con người có sử tính, nghiã là nó cùng tiến
triển vơí lịch sử, vậy thì những suy tư của chúng ta liên quan đến bản tính con
người cũng sẽ thay đổi. Do vậy một vài chỉ thị
phát xuất từ lý trí nhằm suy tư về điều gì là thiện ích và thích hợp cho con
người cũng sẽ phải được canh tân đổi mới. Vậy liệu luật tự nhiên có
chấp nhận mở ra để đón nhận những sự thay đổi không? Bởi vì bản tính con người
chưa hẳn là một sự thể hoàn tất, nhưng vẫn tiếp tục đang trên con đường dẫn đến
sự hoàn thiện, lẽ đó mà người ta đã dùng một lối nói đầy tượng hình là "kiếp
sống con người là một hành trình" để nhằm diễn tả cái chiều kích không ngừng
phát triển của nó. Trên cấp độ "trật tự tự nhiên", ta có thể hỏi tại
sao việc ức chế những tiến trình tự nhiên hay mục tiêu của những khả năng thể
lý (physical faculties) của chúng ta là điều sai trái?
2. Nếu ta chấp nhận theo nguyên tắc rằng: lý
trí là tiêu chuẩn của luật tự nhiên, theo ý nghĩa lý trí tư duy trên bản tính
con người và trên kinh nghiệm của chúng ta, và lý trí ấy có thể khám phá ra những
gì thích hợp cho loài người, hoặc những gì đem đến hạnh phúc, thịnh đạt, do vậy
ta phải theo những điều lý trí chỉ cho chúng ta phải thực hiện hay hoàn thành. Giống
như vậy, những gì không hợp cho ta hay dẫn đến tự hủy hay bất hạnh nên cần
tránh xa. Rồi ta hỏi đâu là điều thiện hảo
cơ bản khiến cho mọi dân tộc thuộc mọi nền văn hóa đều đeo đuổi như là dấu chỉ
về luật tự nhiên, vốn chung nhất cho hết mọi người? John Finnis trong tác phẩm,
Luật tự nhiên và quyền lợi tự nhiên, trình bày luật tự nhiên
như lý thuyết cung cấp cách xác định những điều thiện hảo cơ bản của con người
cần được đeo đuổi. Finnis liệt kê bảy điều thiện hảo cơ bản xuất phát từ luật tự
nhiên: cuộc sống, tri thức, giải trí, cảm nghiệm thẩm mỹ, xã hội tính hay tình
bạn, khả năng suy luận thực tế và tôn giáo.
Hành xử rập theo bản tính con người là tìm những
điều thiện hảo trên, hầu mang lại sự triển nở con người. Không ai được hành xử trực tiếp chống lại các điều thiện hảo. Chính
chỉ thị sau cùng này: "đừng bao giờ hành xử trực tiếp chống lại các điều
thiện ích" đã gây nên nhiều bất đồng ý kiến cả giới triết gia lẫn thần học
gia luân lý. Ta phải làm gì trong tình
huống xung đột, khi mà một điều thiện hảo cơ bản nhân loại được rút ra từ luật
tự nhiên đang xung khắc với một điều thiện hảo cơ bản nhân loại khác? Tỷ dụ việc sinh sản
con cái và trách nhiệm giáo dục chúng cho đến nơi đến chốn, cả hai đều là những
thiện ích trong đời sống hôn nhân gia đình và cũng là bổn phận của vợ chồng.
Nếu như sanh
con qúa nhiều và không có đủ khả năng để nuôi dưỡng và giáo dục chúng cho cân xứng,
thì thiết nghĩ vợ chồng nên bàn thảo với nhau để có thể chọn lựa một trong hai
sự thiện ích trên đây.
Đứng trước những tình huống như vậy, chúng ta phải làm sao để giải
quyết vấn đề khi có hai sự đòi hỏi của hai mục tiêu hiện sinh đã đi vào thế
xung đột. Để giải đáp vấn đề này, ta sẽ dựa vào tiêu chuẩn là mục
tiêu tối hậu của con người. Theo định nghiã về luật tự nhiên, bản tính con người
không phải là nguồn khách quan duy nhất để nhận ra luật luân lý, kết hợp với bản
tính ấy còn có mục tiêu tối hậu nữa. Chính mục tiêu tối hậu này sẽ xác định thứ
tự ưu tiên giữa các mục tiêu hiện sinh khác nhau. Trong trường hợp có xung đột
giữa hai mục tiêu hiện sinh, mục tiêu nào cần hơn cho việc thực hiện mục tiêu tối
hậu, mục tiêu ấy sẽ thắng thế. Ngoài ra, mỗi khi hy sinh một trong các mục tiêu
hiện sinh mà để phục vụ tốt hơn cho mục tiêu tối hậu, thì được phép hy sinh;
đôi khi buộc phải làm nữa.
Ví dụ: Cần giữ gìn sức khỏe, đừng phí phạm năng
lực nhằm bảo tồn sinh mạng. Nhưng khi tình huống cấp bách của quốc gia, cho
phép hay thậm chí đòi hỏi chúng ta phải sử dụng hết năng lực và khả năng của
mình vì ích lợi chung. Vì trong số các mục tiêu hiện sinh, còn có mục tiêu liên
kết với người khác (một trong những nguyên tắc của luật tự nhiên) để thăng tiến
công ích, xây dựng đất nước và bảo vệ ngoại xâm.
3. Điểm
tiếp theo là cách giải thích luật tự nhiên theo “Trật tự tự nhiên”
được Giáo hội sử dụng khi dạy luân lý liên quan đến y học và giới tính,
ví dụ các Thông điệp Casti connubii, Humanae Vitae (1968) và
Humana Persona (1975). Cách giải thích luật tự nhiên theo “Trật tự lý trí ” được Giáo hội chấp nhận sử dụng trong những
thông điệp về xã hội, ví dụ Rerum Novarum (1891), Pacem in terris (1963),
Gaudium et Spes (1965), Populorum Progressio (1967). Từ đó chúng ta có thể nghiệm
thấy rằng: ít ra là cũng có hai lối chú thích về luật tự nhiên được Giáo Hội sử
dụng trong việc giáo huấn của mình. Và với
lối áp dụng hai cách thức chú giải khác nhau về luật tự nhiên thì hẳn nhiên,
chúng ta sẽ có hai hậu kết khác nhau. Về điểm này, chúng ta cũng thấy rõ
thêm là đôi khi Giáo Hội chấp nhận lối giải thích “luật tự nhiên theo trật tự tự
nhiên” thì có trổi vượt hơn lý trí và bó buộc chúng ta phải tuân theo các trật
tự của tự nhiên. Ngược lại, khi truyền dạy về công bình xã hội, thì Giáo Hội lại
áp dụng “luật tự nhiên theo trật tự lý trí,” do đó lý trí lúc này được chiếm một
vị trí ưu thế hơn, khi con người cố gắng rút ra những chuẩn mực luân lý về
phương diện công bằng, hầu xây một thế giới công bình bác ái.
Do đó chúng ta có thể tiên nghiệm hay suy đoán
ra được cái kết luận mà Giáo Hội muốn đề đạt cho con cái của mình nói riêng, và
cho toàn thể nhân loại nói chung. Điều này không thể tránh khỏi sự phê bình và
chỉ trích của một vài thần học gia luân lý của Giáo Hội Công Giáo lẫn các anh
em tôn giáo bạn.
Linh mục Phêrô Trần Mạnh Hùng
Copyright©tác giả giữ bản quyền 2023.
LIÊN
HỆ NHÀ SÁCH ĐỨC BÀ HOÀ BÌNH
Địa chỉ: Số 1 Công Xã Paris,
Phường Bến Nghé, Quận 1, Sàigòn
- Điện thoại: 0938.037.175 - (028) 3.8250.745
- Email: nsachducbahoabinh@gmail.com
- Website: https://ducbahoabinhbooks-osp.com
. Xem Timothy O'Connell, Principles for a Catholic Morality (New
York: Seabury Press, 1976), ch.13.
. Ngoài ra chúng ta còn có Luật mặc khaỉ của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, tỷ dụ
như Mười Điều Răn. Luật mặc khải trong Thánh Kinh được gọi là "Luật thiết
định" của Thiên Chúa. Gọi là "thiết định", vì chúng được đặt ra
do ý muốn đầy uy quyền của T.C, khi Người ngỏ lời vơí con người qua sự mặc khải.
Và thêm vào đó, chúng ta còn có luật của con người (nhân luật). Nguồn gốc trực
tiếp của luật này là thẩm quyền của con người. Nhân luật có thể chỉ tái khẳng định
những đòi hỏi của luật tự nhiên, như các khoản cấm giết người hay trộm cắp (x.
Peschke, Thần Học Luân Lý Tổng Quát,
tập I, trang 166-7).
. It is clear that in this
interpretation of the natural law, reason,
not the physical structure of human faculties taken by themselves becomes the
standard of natural law.
. A. Fagothey, Right and Reason (Saint Louis: C.V. Mosby Company, 1967), trg 120.
. Charles
Curran, Contemporary Problems in Moral
Theology (Notre Dame: Fides, 1970). “The Thomistic natural law
concept vacillates at times between the order of nature and order of reason.
The general Thomistic thrust is toward the predominance of reason in Natural
Law theory. However, there is in Thomas a definite tendency to identify the
demands of the natural law with physical and biological processes.”
. Tất cả những điều này cho thấy rằng
khi chúng chấp nhận lối giải thích của luật tự nhiên như đã được trình bày ở
trên, chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn và vấn nạn mà các nhà tâm lý học cũng
như xã hội học đưa ra. Việc chấp thuận luật tự nhiên là luật phổ quát có thể áp
dụng cho tất cả mọi người, qua mọi thời đại sẽ không được nền tảng hậu thuẩn vững
chắc, khi trong thực tế chúng ta thấy rằng ở tại một số quốc gia thể theo phong
tục và tập quán của họ cho phép chế độ đa thê, hay việc em chồng lấy chị dâu, và coi đó như là một nghĩa vụ cao cả để bảo vệ
giống nòi của họ. Thêm vào đó, lý thuyết cổ truyền về luật tự nhiên đã gặp nhiều
chỉ trích và phản đối. Người ta lập luận rằng đòi hỏi của luật tự nhiên là trở
nên có giá trị phổ quát đã thất bại trước tình trạng có quá nhiều bộ luật luân
lý khác nhau của các dân tộc và các thời đại. Hơn thế nữa, luật tự nhiên không
đánh giá đúng mức lịch sử của các chuẩn mực luân lý.
. Thực vậy, với các khoa như nhân học,
xã hội học và tâm lý học hiện nay đã giúp chúng ta rất nhiều đến việc tìm hiểu
về nguồn gốc và bản tính con người. Giúp cho chúng ta có một cái nhìn chính xác
và thấu đáo hơn, so với những quan niệm trước đây hằng nhiều thế kỷ về con người...
Ta cũng có thể nghiệm thấy điều này là những suy tư của chúng ta về con người
và bản tính của nhân loại đã thay đổi rất nhiều (từ việc hiếu chiến hay gây thù
oán đến việc yêu thích hoà bình và việc hợp tác giữa các quốc gia).
. Tỷ dụ trước đây, con người vì chưa có
những phương tiện truyền thông hiện đại và những phương tiện di chuyển tối tân
như ngày nay. Cho nên việc đi lại gặp nhiều khó khăn, con người muốn liên lạc với
nhau đôi khi mất cả tháng hay năm, tuỳ
theo khoảng cách xa gần. Nhưng nay nhờ những phát minh mới la, tỷ dụ như máy vi
tính hoặc điện thoại, con người có thể
liên lạc với nhau trong tích tắc bất kỳ ở đâu. Nhờ những phương tiện trên mà
con người thời nay đã xích lại gần với nhau hơn, do đó đã xoá bỏ được phần nào
sự hiềm thù, kỳ thị về chủng tộc, óc vị kỷ. Con người cũng có thể trao đổi với
nhau về những kiến thức mới lạ, hầu nâng cao trình độ nghề nghiệp hoặc hợp tác
làm ăn với nhau, cùng nhau phác họa một chương trình nhằm phục vụ cho sự hạnh
phúc và an ninh cho cả toàn cầu. Con người
đã thu gắn lại cái khoảng cách biên giới, nếu điều đó chưa thực hiện được trên
thực tế, thí ít ra trong cái não trạng của họ, đã có một sự xích lại gần nhau.
Họ bớt đi tính ích kỷ và chỉ nghĩ đến cái lợi của riêng mình, nhưng ngược lại,
họ ý thức hơn về cái vấn nạn và khó khăn mà thế giới ngày nay đang phải đương đầu,
tỷ dụ như bề mặt của vỏ điạ cầu đang gia tăng sức nóng… hay vấn đề ô nhiễm môi
sinh. Hiện nay các cường quốc trên thế giới đã ký kết một hiệp ước nhằm giảm
thiểu chất đốt, đặc biệt là các loại chất đốt dó thể gây ra nhiều khí carbonic,
ví dụ như than đá. Tất cả những điều này có được, một phần lớn là do thành qủa
của những phát minh khoa học hiện đại ở thế kỷ thứ hai mươi này đem lại, cũng
như sự thăng tiến về tầm ý thức của con người. Ngày nay qua màn hình TiVi, hoặc
qua hệ thống Internet, ta có thể theo dõi những diễn biến đang xảy ra trên thế
giới, chúng ta có thể am tường những gì đang xảy ra trong thế giới mà chúng ta
đang sống. Điều này ảnh hưởng rất lớn trên bản tính con người của chúng ta.