Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể
Mẹ kính yêu,
Hôm nay con viết thư cho Mẹ khi mùa hè bắt đầu. Ngước lên thấy những chùm hoa
phượng đỏ rực rỡ như những đám cháy trên không báo hiệu “hè về”, cũng báo cho
chúng con biết mùa hoa dâng Mẹ đã đến. Ngày xưa còn bé con rất thích mùa này, vì
được nghỉ hè, không phải đến trường, được xếp sách vở vào ngăn, vui chơi thoải
mái. Không như tụi nhỏ bây giờ, mùa hè phải lo học hè, học thêm, học nữa, học
còn vất vả hơn cả mùa…không hè! Nhưng thích nhất là mùa này con được cùng với
bạn bè đi hái hoa về dâng Mẹ. Tội nghiệp tụi nhỏ bây giờ lo học quá, nhồi nhét
đủ thứ vào đầu mà đánh mất cả tuổi thơ hồn nhiên vô tư chạy nhảy. Chúng đâu còn
cái thú của trẻ thơ leo trèo lên cây, đi vào cánh đồng, băng qua con suối, để
tìm hái những chùm hoa đủ loại đem về dâng lên Mẹ.
Văn chương thi ca âm nhạc viết về Mẹ chẳng bao giờ cạn. Có rất nhiều điều có thể
nói về vai trò của Mẹ trong đời sống chúng con và đời sống Giáo Hội. Thánh
Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Philípphê: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì
là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt,
những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8). Con thấy nơi
Mẹ có đủ những gì là chân thật, cao quý, chính trực, tinh tuyền, đáng mến, đức
hạnh, danh thơm tiếng tốt. Đúng là một kiệt tác của Thiên Chúa. Nói không hết,
suy không cùng, con chỉ xin được nói về vai trò của Mẹ là Mẹ Thánh Thể và Mẹ Xót
Thương.
Trong Thông điệp
Ecclesia de Eucharistia,
ĐTC Gioan Phaolô II viết: “Nếu chúng ta mong ước tái khám phá được toàn bộ sự
phong phú trong mối quan hệ sâu xa giữa Thánh Thể và Giáo Hội, thì chúng ta
không thể bỏ qua Đức Maria, Mẹ và gương mẫu của Giáo Hội…Đức Maria có thể dẫn
dắt chúng ta đến với Thánh Thể, vì chính Mẹ có một mối quan hệ sâu xa với Bí
Tích Cực Thánh này”.
Đọc trong các sách Tin Mừng, tường thuật về việc lập bí tích Thánh Thể đêm thứ
Năm Tuần Thánh, con không thấy chỗ nào đề cập đến Mẹ. Tuy nhiên, con vẫn thấy Mẹ
hiện diện giữa các tông đồ trong cộng đoàn đang “đồng tâm nhất trí” cầu nguyện
mong đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 1,14). Như vậy chắc hẳn Mẹ cũng từng
hiện diện trong các buổi cử hành Thánh Thể của các Kitô hữu tiên khởi, những
người siêng năng tham dự “lễ bẻ bánh” (Cv 2,42). Và ngày hôm nay Mẹ cũng vẫn có
mặt với chúng con trong những buổi cử hành Thánh Thể để giúp con ý thức hơn về
lời thưa “Amen” khi nghe những lời: ‘Mình Thánh Chúa Kitô’, ngay trước khi đón
rước Bánh Thánh.
Khi thưa “Amen”, con tuyên xưng niềm tin chắc chắn tấm bánh con cầm trên tay là
chính Mình Thánh Chúa, như Mẹ bồng ẵm Hài Nhi Giêsu trên tay mà tin chắc đó là
Con Thiên Chúa. Tiếng “Amen” ấy cũng là lời xác tín rằng khi rước Bánh Thánh là
con được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như Mẹ cưu mang Chúa trong cung lòng,
đồng thời con cũng được kết hiệp với những người cùng rước Chúa như anh em một
nhà với nhau, như Mẹ vừa đáp tiếng xin vâng trong biến cố “truyền tin” thì Mẹ
cũng hối hả đi thăm bà Isave để đem Chúa đến cho người chị em ấy, đồng thời cũng
nhận ra Chúa ở trong người chị em của mình. Có một sự tương tự sâu xa giữa lời
Mẹ thưa xin vâng ‘Fiat’
để đáp lại thiên sứ khi truyền tin, và lời con thưa
‘Amen’
mỗi khi đón rước Mình Máu Thánh Chúa.
Không biết con so sánh như vậy có khập khiễng không ? Thú thật với Mẹ, vì “đây
là mầu nhiệm đức tin”
“Mysterium fidei!”
cho nên con phải “lấy đức tin bù lại” nếu giác quan không cảm thấy gì, hoặc nếu
trí khôn nông cạn không thể giải thích thấu đáo tường tận được.
Trong Thông điệp về Thánh Thể
Ecclesia de Eucharistia,
khẩu hiệu
Totus Tuus Mariae
của ĐTC Gioan Phaolô II vang vọng những điều ngài viết về Mẹ trong mối tương
quan với Thánh Thể.
Theo ĐTC, nếu Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vốn vượt quá sự hiểu biết của
chúng con, thì không thể có ai như Mẹ, trở thành người hỗ trợ và hướng dẫn chúng
con trong việc đạt được thiên hướng này.
Khi lập lại các việc Đức Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly, với sự vâng phục mệnh
lệnh: ‘Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy!’, thì con cũng chấp nhận lời mời gọi
của Mẹ trong việc vâng phục Đức Giêsu mà không do dự: “Người bảo gì, các anh cứ
việc làm theo” (Ga 2,5). Nghe và làm theo lời Mẹ dạy chính là nghe và làm theo
lời Chúa, như thế con cũng được phúc như Mẹ, vì Chúa nói “Ai thi hành ý muốn của
Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,21). Với cùng mối
quan tâm của tình mẫu tử mà Mẹ đã bộc lộ trong tiệc cưới Cana, dường như Mẹ
đang nói với chúng con ngày nay: “Đừng nao núng! Hãy tin vào những lời Con của
Mẹ. Nếu Người có khả năng biến nước lã thành rượu, thì Người cũng có khả năng
biến bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Người. Và cũng có khả năng làm cho
những người thông phần Mình và Máu Thánh Người được hiệp nhất với nhau”.
Mẹ đã sống đức tin của Mẹ nơi Thánh Thể, ngay cả trước khi lập phép Thánh Thể,
qua chính việc Mẹ dâng hiến cung lòng đồng trinh của mình cho Ngôi Lời Thiên
Chúa Nhập Thể. Trong khi Thánh Thể tưởng nhớ cuộc thương khó và sống lại, thì
Thánh Thể cũng nối tiếp việc nhập thể. Khi Mẹ mang trong cung lòng mình Ngôi Lời
đã hóa thành người phàm, thì bằng cách nào đó, Mẹ trở thành một ‘nhà tạm’ mà qua
đó Con Thiên Chúa, dù vẫn còn vô hình trước mắt con người, đã tự để cho bà Isave
thờ phượng trong biến cố Thăm Viếng. Khi con nhìn Mẹ chiêm ngắm khuôn mặt của
Hài Nhi Giêsu và đong đưa ầu ơ trong vòng tay Mẹ, thì chính cái nhìn đắm say của
Mẹ truyền cảm hứng cho con khi đón rước Thánh Thể đấy!
Thánh Faustina đã cảm nghiệm sự hiện diện sống động của Thiên Chúa liên lỉ trong
linh hồn mình sau khi rước lễ. Chị nhìn nhận “trái tim tôi là một nhà tạm sinh
động cất giữ Bánh Thánh sinh động. Tôi không bao giờ đi tìm Thiên Chúa ở đâu xa
xôi, nhưng ngay trong lòng tôi” (NK, 1302).
Mẹ ơi,
Con rước Chúa mỗi ngày, nhưng con có là ‘nhà tạm’ cho Chúa ngự đâu! Con chạy đi
tìm thế gian chứ không đi tìm Chúa. Buồn thay, Chúa chỉ được “tạm trú” trong
linh hồn con thoáng chốc khi rước lễ thôi, sau đó là chỗ “thường trú” của tiền
tài danh vọng địa vị chức tước quyền lực. Con nghe lời Chúa than thở với chị
Faustina: “Cha khát khao được kết hợp với các linh hồn; niềm vui sướng lớn lao
của Cha là được kết hợp với các linh hồn. Con hãy biết khi đến với một linh hồn
lúc hiệp lễ, tay Cha đầy ắp mọi ân sủng Cha muốn trao tặng cho linh hồn ấy.
Nhưng các linh hồn không màng đến Cha. Họ để Cha lủi thủi một mình vì bận rộn
những chuyện khác. Ôi, Cha buồn sầu biết bao vì các linh hồn không nhận ra tình
yêu! Họ xử với Cha như một vật vô hồn” (NK, 1385). Trong khi con xử tệ với Chúa
như vậy thì Faustina xác tín: “Tất cả sức mạnh của tôi đều bắt nguồn từ bí tích
Thánh Thể. Tôi dùng mọi giờ phút rảnh rỗi để tâm sự với Người. Người là tôn sư
của tôi” (NK, 1404).
Phần con, trong đời mục vụ, những lúc rảnh rỗi con dùng thời giờ làm gì ? Đi
câu, đi săn, đi nhậu, đi coi xe, coi đất, coi phim, ngồi lê đôi mách, xăm soi
chuyện người khác rồi sinh ra bao nhiêu chuyện, vì ‘nhàn cư vi bất thiện’ ! Thậm
chí có khi rảnh quá đến nỗi ‘không biết làm gì’ ! Cuộc sống dâng hiến như thế
thật vô vị và vô nghĩa. Điểm dừng chân thường xuyên của con là các nhà giầu, các
đại gia, biệt thự nguy nga hoành tráng với yến tiệc linh đình chứ đâu phải ‘nhà
tạm’, đâu phải nhà tranh vách đất, hay những khu nhà ổ chuột. Cánh cửa đầu tiên
con mở khi đi về là cửa nhà bếp, cửa tủ lạnh, chứ đâu phải cửa nhà nguyện, nhà
tạm !
Muốn nói về Đức Mẹ Thánh Thể, kêu cầu Đức Mẹ Thánh Thể thì cuộc sống của con
phải bén rễ nơi Thánh Thể. Con mong ước mình có thể nói như thánh Ignatiô: ‘Đức
Giêsu trong Nhà Tạm là Thiên Chúa, và là tất cả của tôi ! Người là thiên đàng
dưới thế của tôi’. Hoặc như thánh Phanxicô Xaviê, sau một ngày làm việc cho phần
rỗi các linh hồn thường dùng cả đêm cầu nguyện trước Thánh Thể. Khi không vượt
qua được giấc ngủ, thánh nhân đã thả mình ở bậc bàn thờ nghỉ một chút rồi lại
bắt đầu lại cuộc chuyện vãn với Chúa. Thánh Phanxicô Regis cũng như thế. Sau một
ngày làm việc mệt mỏi, thánh nhân cho phép mình được nghỉ một lát trước Nhà Tạm.
Nếu nhà thờ đã đóng cửa, ngài sẽ quỳ trước cửa nhà thờ. Thánh Ignatiô và thánh
Stalislaô Kostka dành mọi giờ rảnh trước Nhà Tạm. Trong những lần thăm người
nghèo khổ, thánh Vincent de Paul đã ghé vào mọi nhà thờ dọc đường, nhỡ khi nhà
thờ đóng cửa, ngài làm các việc đạo đức ngay bên ngoài cửa. Mỗi khi về thành
phố, thánh Leonard of Port Maurice và thánh Benedicy Labre trực chỉ đầu tiên tới
một nhà thờ có lưu giữ Thánh Thể.
Con yêu quý một người bạn nào đó vì những phẩm chất và các đức tính tốt của bạn
ấy, nếu người ấy càng thân thiết và quảng đại với con thì con càng yêu người ấy.
Vậy tại sao Chúa thân thiết và quảng đại với con như thế, Chúa yêu thương con
như thế, mà con thường chối từ tình yêu đó ?
Buồn vì sự bội bạc của con người đối với tình yêu Chúa, thánh Phanxicô Assisi,
thánh Têrêsa Avila, thánh Mary Magdalen Pazzi và các thánh khác phải khóc lên vì
đau đớn và kêu lên : ‘Ôi, Tình yêu không được yêu ! Tình yêu không được yêu !’
Con nghe thánh Alphonsô nói: ‘Một linh hồn dành chút thời gian hồi tâm sốt sắng
trước Thánh Thể sẽ nhận được sự an ủi của Chúa lớn hơn mọi niềm vui thế gian có
thể ban tặng. Đức Giêsu trong Thánh Thể là nguồn của mọi sự thiện’.
Còn cha thánh Vianey thì quả quyết: “Hiện nay, hỡi các con nhỏ của ta, khi ta
giữ Chúa trên đôi bàn tay là lúc Người ban phúc cho ta. Hãy xin Người mở đôi mắt
tâm hồn của các con và nói như người mù thành Jêrichô rằng: ‘Lạy Chúa, xin cho
tôi nhìn thấy!’ Nếu kêu cầu chân thành, các con sẽ nhận được điều mình mong ước,
bởi Người chỉ mong hạnh phúc cho các con. Bàn tay của Người tràn đầy ân sủng
đang tìm ai đó để ban phát, nhưng than ơi chẳng có được ai! Ôi sự dửng dưng và
vô ơn ! Hỡi các con của ta, chúng ta thật vô phúc nếu không hiểu được những điều
này. Chúng ta sẽ hiểu rõ vào một ngày nào đó, nhưng nếu vậy thì quá trễ mất
rồi.”
Trong cuốn sách nhỏ có tựa đề :
Quỳ gối trước Thánh Thể,
tác giả Gaumes kể lại câu chuyện một người Tin Lành trở lại Công Giáo nhờ tấm
gương yêu mến kính trọng Thánh Thể của một giám mục Công Giáo.
‘Đức giám mục Mermillod, một tông đồ thánh thiện và có tài hùng biện. Ngài kể
lại khi còn là đại diện tại Geneva, ngài đã làm cho một người Tin Lành trở lại
mà không hay biết do việc quỳ gối cách kính cẩn trước Thánh Thể.
‘Vị giám mục ấy có thói quen viếng Thánh Thể vào mỗi tối để chăm sóc đèn chầu và
xem cửa nhà thờ đã gài kỹ chưa, cũng như có còn ai ẩn nấp trong nhà thờ chăng,
vì ngài sợ kẻ trộm phạm thánh. Khi đã xem xét cẩn thận mọi thứ, ngài quỳ tại bậc
bàn thờ một lát, sau đó cung kính bái gối và hôn đất như biểu hiện cung kính sâu
thẳm trước Thánh Thể rồi ra về.
‘Một tối nọ, tin rằng chỉ còn một mình trong nhà thờ, ngài kết thúc việc đạo đức
của mình như thường lệ. Vừa nhấc gối lên, ngài nghe thấy một tiếng động. Đột
nhiên cửa tòa giải tội mở ra và một phụ nữ có cung cách đoan trang bước ra.
Mermillod liền hỏi: ‘Này bà, bà làm gì ở đây vào giờ này?’
Bà trả lời: ‘Tôi là một người Tin Lành. Tôi đã tham dự các buổi chia sẻ của ngài
nói về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Các luận chứng của
ngài đã thuyết phục tôi về chân lý của học thuyết này. Xin lỗi ngài, chỉ còn lại
một nghi ngờ là không biết chính ngài có tin điều mình giảng hay không. Tôi muốn
được nhìn xem khi ở một mình, ngài có cư xử trước Thánh Thể như một người tin
thực sự hay không. Tôi sẽ quyết định trở lại Đạo nếu tư cách đạo đức của ngài đi
đôi với lời của ngài. Tôi đã đến, đã thấy và tôi tin’.
‘Người phụ nữ này sau đó đã trở thành một tín hữu Công Giáo rất nhiệt thành ở
Geneva.’
Giảng điều mình tin và sống điều mình giảng. Con có làm như vậy không ? Hay
những điều con giảng chỉ là một mớ lý thuyết không hồn, những bài viết sẵn trên
web được đọc lại y chang với cung điệu nhấn nhá như thử là của mình. Đọc mà
không hiểu mình đọc gì thì làm sao truyền đạt cho người nghe? Giảng mà chính
mình không xác tín thì làm sao thuyết phục thính giả ? Khó nhất vẫn là sống điều
mình giảng. Người phụ nữ ấy trở lại Đạo vì thấy tư cách đạo đức đi đôi với lời
người giảng, trong khi có nhiều người tín hữu ngày nay bỏ Đạo vì thấy tư cách
đạo đức của con đi ngược lại với lời con rao giảng. Con giảng về Thánh Thể, cung
nghinh Thánh Thể, Chầu Thánh Thể, cử hành Thánh Thể mà không sống Thánh Thể,
không yêu thương hiệp nhất với nhau, không tha thứ đón nhận nhau, thậm chí muốn
loại trừ nhau, thì còn có nghĩa gì không ? Làm như thế là con chuốc lấy án phạt
cho chình mình !
Mẹ ơi,
Thánh Phêrô Giulianô Eymard, tổ phụ Dòng Thánh Thể, khuyến khích con đi theo Mẹ
đến phòng Tiệc Ly để cầu nguyện với Thánh Thể. Ở đó, con có thể “suy nghĩ bằng
tư tưởng của Mẹ, nói bằng những lời yêu thương của Mẹ, noi theo cách thức sống
của Mẹ, thực hiện những hành động của Mẹ, chia sẻ những nỗi đau khổ của Mẹ”. Khi
con làm được như thế thì toàn bộ điều này sẽ nói lên cho con về Đức Giêsu, và
con sẽ đi đến chỗ nhận biết Chúa hơn, nhờ trái tim của Mẹ. Trong cuộc đời Mẹ,
con tìm được gương mẫu và niềm an ủi cho cuộc đời mình. Khi cùng với Mẹ quỳ gối
trước Nhà Tạm, con sẽ tiếp tục đời sống Thánh Thể của Mẹ trên trần thế. Không gì
có thể làm cho Đức Giêsu hạnh phúc hơn là nhận thấy nơi chính bản thân con, hình
ảnh Mẹ yêu dấu của Chúa. Và cũng không gì làm cho Mẹ hạnh phúc hơn là thấy nơi
chính bản thân con, hình ảnh Con yêu dấu của Mẹ!
Cha thánh Eymard kêu cầu: “Ôi! Lạy Đức Maria! Xin dạy cho chúng con đời sống thờ
phượng! Xin dạy chúng con nhận thấy giống như Mẹ, tất cả các mầu nhiệm và các ân
huệ trong Thánh Thể; hầu chúng con sống lại những câu chuyện Tin Mừng, và đọc
lại Tin Mừng dưới ánh sáng đời sống Thánh Thể của Đức Giêsu. Ôi! Lạy Đức Mẹ của
Bí Tích Cực Thánh, xin hãy nhớ Mẹ là Mẹ của tất cả những người thờ phượng Thánh
Thể” (Thánh Phêrô Julianô Eymard,
Đức Mẹ của Bí Tích Cực Thánh).
“Trong đời chúng ta, tất cả phải là tôn thờ.
Giờ Chầu-Cầu Nguyện
phải kéo dài trong
Giờ Chầu-Cuộc Sống.
Lúc nào tôi cũng có thể thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Mọi hành động của tôi đều
có thể là tôn thờ. Không ai có thể tách lìa tôi ra khỏi Giêsu Kitô. Không ai có
thể lấy mất Giêsu Kitô của tôi” (Linh Đạo của cha Thánh Phêrô Giulianô Eymard.
Rôma, 1956, tr. 380).
Là con cái của cha Thánh Eymard nhưng con chưa thấm nhuần được bài học này. ‘Giờ
Chầu-Cầu Nguyện’ của con chỉ đóng khung trong nhà thờ, nhà nguyện mà không kéo
dài trong ‘Giờ Chầu-Cuộc Sống’. Thế cho nên ‘cuộc sống trần thế’ của con chẳng
mang đậm nét ‘cuộc sống Thánh Thể’. Con hay nói về ‘sứ vụ Thánh Thể’ mà thực ra
con chẳng hiểu sứ vụ đó là như thế nào và thực hiện ra sao.
Biệt tính đặc thù của các tu sĩ Thánh Thể nằm ở điểm này: “Đời hoạt động của Tu
Sĩ Dòng Thánh Thể nhằm mục đích là làm cho Chúa chúng ta trong Thánh Thể được
phụng sự hết mức và vương quyền của Người được rộng mở cùng khắp: mọi người phải
nhận biết, yêu mến và phục vụ Người. Bất cứ phương thức nào mà lòng nhiệt thành
thuần tuý và vô vị lợi của chúng ta có thể sáng nghĩ ra, chúng ta cũng phải tận
tình tận sức mà vận dụng để đạt mục đích này.” (Linh Đạo của cha thánh Phêrô
Giulianô Eymard. Rôma, 1956, tr 390).
Theo lời dạy của cha thánh Tổ Phụ thì mọi tu sĩ Thánh Thể phải hết lòng dốc sức
vận dụng ‘bất cứ phương thức nào mà lòng nhiệt thành thuần tuý và vô vị lợi của
chúng ta có thể sáng nghĩ ra’ để đạt mục đích là làm cho mọi người nhận biết,
yêu mến và phục vụ Chúa nơi Thánh Thể. Cha tổ phụ đâu có giới hạn hoạt động tông
đồ của tu sĩ Dòng Thánh Thể trong lãnh vực nào, cũng đâu cấm sử dụng phương thức
nào. Như thế việc loan truyền lòng thương xót Chúa được biểu lộ nơi Thánh Thể và
dấn thân thực hành lòng thương xót quả đúng là sứ vụ Thánh Thể mà con phải thực
hiện, đúng không Mẹ?
Người ta bảo “Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”, thế nhưng cách
suy nghĩ, nói năng, hành động của con chẳng giống Mẹ chút nào, cũng chẳng theo
linh đạo của cha thánh Eymard nữa. Như vậy con có thực là con của Mẹ không? Con
có còn là con cái của cha thánh tổ phụ Dòng Thánh Thể nữa không ?
Chính ĐTC Gioan Phaolô II trong thông điệp về Thánh Thể
Ecclesia de Eucharistia
cũng nhấn mạnh đến việc cần phải thay đổi cách thức thờ phượng:
“Cách
thờ phượng của Đức Maria không theo sáo mòn. Suốt một thời gian, Mẹ thờ phượng
Người trong cung lòng mình; lúc khác, Mẹ thờ phượng như một người nghèo nàn và
thấp hèn tại Bêlem; lúc khác nữa, Mẹ lại thờ phượng trong khi lao động tại
Nagiarét; và sau này, Mẹ thờ phượng như người truyền bá Phúc Âm trên đất nước và
hoán cải các tội nhân. Cách thờ phượng của Đức Maria luôn luôn theo kịp những
tình cảm nơi Người Con Thần Thánh của Mẹ, rõ ràng đã được mặc khải cho Mẹ. Tình
yêu của Mẹ làm cho Mẹ hoàn toàn phù hợp với Đức Giêsu trong tư tưởng và đời
sống.
“Đối với anh em, những người thờ phượng, chúng tôi xin nói: ‘Anh em hãy luôn
luôn thờ phượng Đức Giêsu, nhưng hãy thay đổi cách thức thờ phượng, như Đức
Trinh Nữ Rất Thánh đã làm. Anh em hãy ghi nhớ trong tâm trí mình tất cả các mầu
nhiệm nào của đạo liên quan đến Thánh Thể, nhằm tránh được lối mòn. Nếu lòng yêu
mến của anh em không được nuôi dưỡng bằng một hình thức đạo đức mới, một tư
tưởng mới, thì anh em sẽ trở nên ngớ ngẩn trong việc cầu nguyện.”
Mẹ dấu yêu của con,
Con đọc thấy trong thông điệp
Ecclesia de Eucharistia,
ĐTC Gioan Phaolô II nói về lời kinh
Magnificat
của Mẹ trong tương quan với Thánh Thể:
“Khi Mẹ thốt lên ‘Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi’, thì Mẹ đã mang Đức Giêsu trong cung lòng mình.
Mẹ ngợi khen Thiên Chúa ‘thông qua’ Đức Giêsu, nhưng Mẹ cũng ngợi khen Thiên
Chúa ‘trong’ Đức Giêsu và ‘cùng với’ Đức Giêsu. Tự thân việc này là ‘thái độ
Thánh Thể’ đích thực. Đồng thời, Mẹ còn gợi lên những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa
đã làm trong lịch sử cứu độ, khi kiện toàn lời hứa mà Người đã từng thực hiện
với cha ông (Lc 1,55), và công bố điều kỳ diệu trội vượt trên mọi điều kỳ diệu,
đó là việc nhập thể cứu độ”.
“Lời kinh ấy còn phản ánh áp lực cánh chung của Thánh Thể. Mỗi khi Con Thiên
Chúa đến với chúng con trong sự ‘nghèo nàn’ của những dấu chỉ mang tính cách bí
tích của bánh và rượu, thì những hạt giống của lịch sử mới đều được bén rễ sâu,
trong đó, người quyền thế bị ‘hạ bệ’, và những ‘kẻ khiêm nhường được nâng cao’
(Lc 1,52). Kinh
Magnificat
diễn tả linh đạo của Mẹ, và không gì cao cả hơn linh đạo này, qua việc giúp
chúng con trải nghiệm được mầu nhiệm Thánh Thể. Thánh Thể đã được ban cho chúng
con, để rồi giống như cuộc đời của Mẹ, cuộc đời chúng con hoàn toàn có thể trở
thành một Kinh
Magnificat”!
Cuộc sống với nhiều khó khăn thử thách làm con dễ thành người ưa càm ràm than
thân trách phận thay vì ngợi khen ‘Chúa đã làm cho con những điều kỳ diệu’ như
Mẹ hằng chúc tụng Chúa trong lời kinh Magnificat. Con ngại khó, sợ khổ, không
dám hy sinh, không muốn cho đi, thì làm sao mà ‘sống Thánh Thể’ được. Con hay
suy ngắm sự ‘thương khó’ rồi dừng lại ở đó để trở thành con người ‘khó thương’ !
Linh hồn càng có tình yêu Thánh Thể ngự trị thì càng sẵn sàng đón nhận hy sinh,
vì biết nhìn đến góc cạnh vinh quang của nó. Con đọc trong một lá thư linh hướng
đề ngày 10-10-1867 (chỉ 10 tháng trước khi qua đời), cha Thánh Phêrô Giulianô
Eymard đã viết những dòng đáng trân trọng này: “Được lắm, con có thể suy niệm sự
thương khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, nhưng đừng chiêm ngắm như mẫu mực hy
sinh đền tội, mà đúng hơn, hãy chiêm niệm ở đây một bằng chứng của tình yêu
Người dành cho con và cho tất cả chúng ta. Thập giá không thể tách rời cuộc sống
này. Để cho cây thập giá mất đi vẻ xù xì ghê sợ của nó, tình yêu Đức Giêsu đã
gắn những đoá hoa Thiên Đàng để trang điểm cho nó.” (Thư Eymard, tập IV, tr.
212).
Thánh thi của Byzantine, thế kỷ V mời gọi con tung hô Mẹ: “Ôi lạy Mẹ Thiên Chúa
cao cả, trong khi chúng con ca ngợi Người Con Thần Thánh của Mẹ, chúng con ngợi
khen Mẹ như đền thờ sống động của Người. Chúa đầy quyền năng đã đến ngự trong
cung lòng Mẹ, thánh hóa, tôn vinh và dạy cho tất cả mọi người kêu lên Mẹ: Mừng
vui lên, hỡi Nhà Tạm của Ngôi Lời Thiên Chúa! Mừng vui lên, hỡi người phá hủy
tất cả những kẻ tấn công chúng con! Mừng vui lên, hỡi Đấng chữa lành tâm trí và
cơ thể! Mừng vui lên, hỡi ơn cứu độ của các linh hồn!”
Những người con của Mẹ, con của Chúa Giêsu Thánh Thể phải là chứng nhân của niềm
vui, bình an, phục vụ trong hân hoan, và nhất là chứng nhân của lòng thương xót
trong thời đại này.
Quả là Thiên Chúa mong muốn con hân hoan đón nhận muôn phúc lành mà Người đã mạc
khải rõ ràng và tuyệt vời cho thánh Mechtilde. Một lần, khi thắng được nỗi sợ
đến trước mặt Chúa, sợ bất xứng với ân thánh, thì bà nghe thấy tiếng Cha trên
trời phán: ‘Hãy tới với Mẹ của Con Thiên Chúa, xin Mẹ ban Hài Nhi có mọi kho
tàng của Ta để lãnh nhận ơn cứu độ’.
Thánh nhân thấy Chúa Hài Nhi được cuốn khăn nằm trong máng cỏ cùng tiếng nói:
‘Này đây, khi Ta vào thế giới, Mẹ đã bọc tấm tã bao quanh để Ta không xê dịch
được bằng tay chân. Đó cũng là cách Cha Trên Trời muốn: Hãy tới gần, hãy ôm lấy
những kho tàng từ Trời mà Chúa Con ngay thuở mới sinh đem đến, đang có tay chân
bị bó chặt, đâu bảo vệ được gì !
‘Lại nữa, trong giờ chết, Ta bỏ lại thế gian. Những kẻ bách hại dùng đinh sắt
đóng chân tay Ta vào thập giá. Cha Ta dường như cũng nói: Hãy tới gần gom lấy
hết những kho tàng ân sủng của Chúa Con trao ban nhờ sự sống, thương khó và sự
chết của Người. Tất cả những ai bị đóng đinh chân tay vào thập giá đâu thể ngăn
nổi người khác tước mất tài sản của mình !
‘Chính trong Thánh Thể, Ta gói trọn những ân huệ của cuộc sống tại thế, thương
khó và sự chết. Đó là tất cả tài sản trên trời, dưới thế của Ta. Bởi thế, nhân
loại có thể tin tưởng chạy đến
lấy đi mọi sự của Ta.
Ta ước muốn mọi người biết sử dụng kho tàng này cho phần rỗi của mình.’
Ước chi con người có thể hiểu được ngôn từ này của trời cao, Mẹ nhỉ !
Con xin hiệp ý với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong
Huấn dụ Tông đồ Giáo dân Christifidelis,
ngày 30 tháng 12, 1988 kêu xin Mẹ:
“Ôi!
Lạy Đức Trinh Nữ đầy can đảm, xin cho sức mạnh thiêng liêng và niềm tín thác của
Mẹ nơi Thiên Chúa truyền cảm hứng cho chúng con, hầu chúng con biết cách khắc
phục tất cả những trở ngại gặp phải trong việc thực hiện sứ mạng của chúng con!
Xin dạy chúng con cách xử lý những công việc trần thế, với một ý thức thực sự về
trách nhiệm Kitô hữu, và với một niềm hy vọng vui tươi về Nước Thiên Chúa đang
đến và về một ‘trời mới đất mới’.
“Ôi lạy Mẹ Đồng Trinh, xin hướng dẫn và nâng đỡ chúng con, hầu chúng con có thể
luôn luôn sống như những con cái đích thực trong Giáo Hội của Con Mẹ. Xin tạo
khả năng cho chúng con thiết lập nền văn minh tình yêu và chân lý trên trái đất,
như Thiên Chúa muốn, vì vinh quang của Người. Amen”