Khi
một luật sĩ hỏi câu gì, thì ông đã biết câu trả lời phải làm sao. Khi một luật
sư hỏi bên bị, bên nguyên, ngay cả hỏi quan toà, thì ông đã tiên liệu trước câu
trả lời. Nếu người được hỏi trả lời thế này, sẽ bắt bẻ thế này. Nếu trả lời
ngược lại, sẽ bắt bẻ thế kia. Đối với một luật sư, họ không bao giờ hỏi một câu
mà họ không biết chắc câu trả lời.
Bài
Tin Mừng hôm nay cũng có luật sư, mà Kinh Thánh gọi là luật sĩ, là thầy thông
luật. Thầy sẽ hỏi và người được (bị) hỏi là Thầy Giêsu. Câu hỏi 1 của ông xuôi
chảy, dẫu là để thử Chúa:
Và này có người thông luật kia
đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng : "thưa Thầy, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?" Đức Giêsu đáp (nhưng là hỏi) :
"Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?" Ông ấy thưa : "Ngươi
hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức
lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." Đức
Giê-su bảo ông ta : "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được
sống."
Vậy là ông hỏi
Chúa, và ông cũng biết câu trả lời, nên khi Chúa hỏi lại, ông trả lời vanh
vách. Nhưng khi Chúa khen, ông trở nên quê, nên phải hỏi một
câu nữa cho ra nhẽ là thông luật. Sách Tin Mừng ghi: Nhưng ông ấy muốn chứng
tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng (và đây là câu hỏi 2) :
"Nhưng ai là người thân cận của tôi ?"
Và
khi hỏi câu đó, ông cũng biết tỏng câu trả lời : Người
thân cận của tôi là người Do Thái chứ ai. Theo truyền thống Do Thái, người
thân cận, làng xóm được định nghĩa như là: những
người con trai của riêng xứ bạn. Tức là, người làng xóm láng giềng : không
phải là tôi nhà số 12 Trần Phú, người hàng xóm sẽ là số 14 hoặc 16. Không phải.
Kẻ ở thiệt xa, tôi Nhatrang họ Thái Bình, nhưng sẽ là làng xóm, láng giềng thân
cận nếu họ cùng dân tộc. Người ở sát vách, mà là dân tộc khác, họ chẳng phải là
láng giềng, lân cận.
Hãy
yêu người lân cận như chính mình. Luật dạy thế. Vậy ai là người lân cận, chòm
xóm. Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của luật sư, mà kể ra một dụ ngôn gây sốc,
dụ ngôn người Samaritano nhân lành, mà đối với người Do Thái, bất kể người
Samaritano nào cũng đáng ghét cả. Họ ở xa cũng đáng ghét, họ ở gần càng đáng
ghét hơn.
Kết dụ ngôn sẽ là một câu hỏi ngược lại
cho nhà thông luật kia: "Vậy ông
nghĩ, trong ba người đó (tư tế, Lêvi và
người ngoại Samaritano), ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào
tay kẻ cướp ?" Người thông luật trả lời : "Chính là kẻ đã
thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta :
"Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
Khi
ông luật sư muốn biết rõ định nghĩa của hai chữ “thân cận”, tức “đối tượng” yêu mến thì Đức Giêsu lại
cho ông hay về “chủ thể” của lòng
mến yêu, tức người yêu thương, chứ không phải kẻ được yêu thương. Thay vì hỏi :
ai là người thân cận, Chúa Giêsu chuyển qua câu hỏi: tôi là người thân cận của
ai.
Người
Samari là kẻ thi thố lòng yêu thương cho tha nhân, bất kể người đó là ai: Tây,
Tàu, Nhật Bản, Do Thái hay Hy Lạp, Ả Rập. Bin Laden. Bởi vì ông là người thân
cận rồi, thì ông chẳng cần tìm hiểu xem ai là người thân cận để chỉ yêu người
thân cận mà thôi. Thầy thông luật đã đặt sai câu hỏi. Ông muốn giới hạn lòng
yêu mến: Xin Thầy chỉ cho tôi chính xác phải yêu mến tới đâu, người nào? Chúa Giêsu
trả lời: Đừng hỏi thế, mà nên hỏi: Tôi phải yêu mến thế nào? Tới đâu là giới
hạn.
Trong một buổi học ở Manila, 1995, các học viên được giảng viên
yêu cầu mỗi người làm một thực tập nhỏ là lấy một tờ giấy lớn và ghi tên tất cả những
người thân của mình, những người mà mình yêu thương đến độ có thể hy sinh mạng
sống vì những người ấy. Ai nấy chăm chú
suy nghĩ và cắm cúi viết. Một học viên người Việt sau giờ học tâm sự: “Thấy người ta ghi, tôi cũng ghi. Nhưng rất
nhanh, tôi nhận ra rằng danh sách những người thân của tôi, những người mà tôi
thương yêu hơn cả bản thân mình đến mức tôi sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì
những người ấy thì rất ngắn ! Vì ngoài mẹ tôi, vợ tôi và hai con tôi, tôi không
dám ghi thêm tên một người nào khác nữa, vì tôi không chắc là mình đã yêu
thương những người ấy đến độ có thể hy sinh mạng sống cho một ai trong họ.
Tôi phải thú nhận
rằng: dù giảng viên không yêu cầu chúng tôi nộp danh sách, cũng không yêu cầu
học viên nói lên số người được ghi trong tờ giấy của mình nhưng riêng tôi, tôi
rất xấu hổ: xấu hổ với Chúa và xấu hổ với chính mình. Vì người thân cận quá ít.”
Ấy vậy mà trong cuộc sống, người thân cận
lại quá nhiều để mình phải yêu thương. Nói cách khác, vì tôi là người thân cận
rồi, nên chẳng cần tìm ai là người thân cận để yêu thương nữa, mà là cứ yêu
thương bất cứ ai.
Tại một giao lộ, một bà đứng bên lề đường
đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ
khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là
thiếu nữ này đang khóc vì nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu
nó.
Đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề
và khởi sự sang đường. Khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng
nhiên nổi dậy. Bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô. Ao ước đó lại càng gia
tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà.
Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời
thăm hỏi cũng không. Chẳng khác gì thầy tư tế và Lêvi đi ngang qua và chạy
nhanh khi gặp người bị cướp đánh cho nhừ tử.
Cho nên, nhiều giờ sau, đôi mắt ngập
tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, "Tại
sao mình không quay lại hỏi thăm, 'Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?' Mình
đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ
mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài
giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã
bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện."
Hằng ngày chúng ta gặp
những biết
bao nhiêu người không bị đánh nhừ tử
nơi thân xác, nhưng nơi tâm hồn. Chúa Kitô muốn chúng ta giúp đỡ không những người
đau đớn thể xác, mà cả những kẻ đau khổ nơi tâm hồn. Giáo hội của Chúa cũng dạy
thương người có 14 mối thương xác 7 mối, mà thương linh hồn cũng 7 mối: lấy lời
lành khuyên người, sửa dạy kẻ mê muội, an
ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ
sống và kẻ chết.
Ta có thể nói theo ngôn
ngữ thông thường hơn về việc thương người 7 mối mặt tâm hồn: Ta có
thể có 3 cái cho sau đây
-Một nụ cười chân thành. Mẹ Têrêxa Calcutta thường khuyên như thế, dù mẹ cười không đẹp, nhưng lòng thành của mẹ chẳng ai lại
không thấy. Bao vết thương có thể lành miệng, nhờ ta mở miệng nở nụ cười.
-Một lời chào vui vẻ. Sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn
sầu muộn. Lời chào lời thăm hỏi trực tiếp khi tiếp xúc mà cũng có thể
qua phương tiện truyền thông như thư từ, điện thoại, email tất cả đều có sức chữa lành.
-Một lời “cảm ơn” nồng nàn. Nó có thể khích lệ một người bị
quên lãng, bị khinh khi. Bạn hãy cố gắng cám ơn bác tài xế, người phu hốt rác,
người phát thư và
bạn cũng cần cám ơn những người trong gia đình bạn. Thầy cô giáo bạn, người
chiêu đãi và cả người thợ cạo râu hớt tóc.
Quả thật, con đường từ Giêrusalem xuống Yêricô, trên đó kẻ
cướp để nạn nhân nửa sống nửa chết, trên đó người Samatitanô nhân hậu đã chăm
sóc nạn nhân, con đường đó khởi sự từ nhà thờ này, từ cửa nhà thờ tới nhà bạn,
tới bàn giấy, tới xưởng thợ, tới nơi làm việc, tới lớp học của bạn. Dọc theo
con đường ấy, có biết bao người bị thương nặng, nhẹ trong tâm hồn, hãy dừng lại
và tiếp giúp họ. Nói vài lời, nở nụ cười, làm một việc để giúp đỡ.
Hãy là người thân cận của mọi người chứ không phải tìm ai
là người thân cận để yêu mến một mình người đó không thôi, như ông luật sĩ nọ.
Amen
Anphong
Nguyễn Công Minh, ofm
(tổng hợp từ nhiều nguồn)