Vì sao Chúa giảng dạy bằng dụ ngôn ?
Bài giảng hôm nay nhằm vào phần II của bài
Tin Mừng. Phần I : Chúa công bố dụ ngôn người gieo giống. Phần III: Chúa giải
thích dụ ngôn đó nghĩa là gì. Còn Phần II: Chúa trả lời cho câu hỏi của các
tông đồ: Vì sao Chúa lại dùng dụ ngôn mà
nói với dân chúng.
Vì sao Chúa lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng
?
Chúng ta thử trả lời và chúng ta nghe
Chúa Giêsu trả lời.
1. Chúng ta
thử trả lời:
Nếu để
chúng ta trả lời cho câu hỏi ”vì sao Chúa dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng,”
thì nghĩa thật đơn giản : Chúa dùng dụ ngôn để cho dân dễ hiểu. Mầu
nhiệm Nước Trời thì cao siêu sâu thẳm, Chúa phải dùng những ví dụ, những hình
ảnh quen thuộc trong đời thường của người dân lúc đó, như cây nho ai cũng thấy,
như hạt lúa ai cũng hay, như mẻ cá ai cũng rõ, như đàn chiên ai cũng tỏ, như
đám cưới ai cũng có thể tường và cảm được vv… để diễn tả những mặt khác nhau của
mầu nhiệm Nước trời.
Một bài
giảng không có những ví dụ, bài giảng đó sẽ khô khan. Một cours triết không có
những hình ảnh, sẽ tối nghĩa..., vì thế dụ ngôn là những hình ảnh, những ví dụ
trong Tin Mừng nhằm làm cho dân chúng dễ hiểu.
2. Chúa Giêsu
trả lời
Nhưng câu
trả lời rất dễ hiểu của chúng ta lại không phải là câu giải đáp của Chúa khi
tông đồ hỏi : Tại sao lại dùng dụ ngôn.
Chúa đã trả lời ngược hẳn lại với ý của chúng ta : Thầy dùng dụ ngôn
để dân chúng không hiểu được !
“Bởi thế
Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. [Rồi Chúa
còn trích lời ngôn sứ Isaia xưa làm ta thêm lúng túng: Kẻo mắt họ thấy được, tai họ nghe được và họ hiểu được mà hối cải rồi
ta lại chữa lành cho họ].
Quả vậy dụ
ngôn khi đẩy đến nghệ thuật cao sẽ trở thành câu đố bí hiểm. Người không được
khai tâm, người không có khoá giải mã sẽ không hiểu được.
Trong Cựu Ước
đầy dẫy những hình ảnh mật mã câu đố ấy. Như
Samson đố người Philitinh: “Tự đứa ăn của ăn xuất, tự đứa mạnh, ngọt
ngào ra” nếu giải được thì thưởng 30 bộ trang phục.
Không có gì
mạnh bằng sư tử, không có gì ngọt bằng mật ong.
Con sư tử
bị Samson giết bằng tay không hôm nào, nay đàn ong đến đóng tổ trong đầu nó, ong
hút nhuỵ hoa, sản xuất mật : tự đứa ăn của ăn xuất. Đàn ong vào làm tổ
trong đầu sư tử, Samson lấy mật ong từ đầu sư tử : tự đứa mạnh, ngọt ngào
ra. (sách Thủ Lãnh 14,4tt).
Việt Nam có
nhiều câu đó tương tự : Một đàn cò trắng phau phau, ăn no tắm mát rủ nhau đi
nằm. Đó là chén bát ăn cơm.
Is 5,17 cho
một dụ ngôn khác: “Bạn ta có một vườn nho, rào dậu chăm bón, nhưng nho lại
sinh trái dại, chủ vườn nho thịnh nộ : Ta sẽ cấm mây trời đổ mưa xuống trên nó
…” Bí mật vẫn còn bao trùm. Tấm màn bí ẩn chỉ bị xé rách khi cuối bài đó,
Isaia cho biét: Vườn nho của Đức Chúa các cơ binh chính là nhà Israel.
Một ngày
kia, Thiên Chúa cho ngôn sứ Amos thấy một giỏ trái cây chín. Và Người phán: Ngươi
thấy gì hỡi Amốt. Tôi thưa : Một
giỏ trái cây chín. Và Đức Chúa bảo tôi: Dân Israel đã chín tới
thời tận. Chín có nghĩa là gặt hái, thu lượm kết quả. Nhưng chín
cũng có nghĩa là tận cùng, rơi rụng, .. Phải giải thích, giải mã mới hiểu.
Các dụ ngôn
của Chúa Giêsu cũng phải được giải thích và Chúa lại chỉ giải thích cho các môn
đệ nhóm người bé nhỏ. Còn đối với dân thì cứ để họ không hiểu.
Câu trả lời
kế tiếp của Chúa còn làm ta lúng túng hơn khi Chúa trích lời Isaia: Họ nhìn
mà không thấy, nghe mà không hiểu. Kẻo mắt họ thấy được, tai họ nghe được, lòng
họ mở ra, và họ hối cải, thì ta lại chữa lành. Cứ như mạch văn đây thì: dạy
bằng dụ ngôn là để cho dân không hiểu. Không muốn cho dân hiểu, kẻo họ hiểu rồi
hối cải thì ”Ta” sẽ chữa lành mất.
Ta phải
hiểu câu này thế nào. Có nhiều lối giải thích, từ uyên bác đến đơn sơ, từ lịch
sử đến đạo đức, kể cả lối giải thích gọi là lịch sử hình thành các bản văn. Nhưng
ở đây lối hiểu theo văn phạm giúp ta dễ vượt qua hơn cả.
Khi ta nói
: ăn để mà sống. Chữ “để” có nghĩa là mục đích. Ăn có mục đích làm cho
sống. Nhưng ta cũng có thể nói : Ăn để
chết chữ “để” không có ý nghĩa mục đích
nữa mà là thể ”liên tiếp”, thể ”hậu quả”. Cứ ăn đi rồi tới lúc phải
chết. Câu nói của Chúa Giêsu trong trường hợp này cũng vậy, không phải chỉ mục
đích, nhưng vì là Thiên Chúa thấu suốt cả tương lai, nên Ngài biết hậu quả là
như thế. Giảng bằng ngụ ngôn để họ không hiểu, họ không tin, họ không trở lại.
Câu Chúa
Giêsu nói đây trích từ sách Isaia. Thời Isaia, khi được sai đi, Đức Chúa đã cho
biết Dân mà Isaia giảng cho, nghe mà không chịu hiểu đâu, để ngôn sứ đừng ngã
lòng.
Thời Đức
Giêsu, mấy kẻ theo Ngài, chỉ trừ một nhóm nhỏ hiền lành, chất phác.
Thời các
tông đồ, dân Do Thái cũng chẳng tin là là bao đến nỗi cuối sách Công Vụ khi
Phaolô được giải tới Roma, ngài gặp cộng đoàn Do Thái tại đó trước, nhưng họ
chẳng tin, nên Phaolô cũng trích lại câu Isaia trên kia : nghe mà không hiểu, trố mắt mà chẳng thấy (Cv 28, 26-27)
Mãi cho tới
nay, 2000 năm sau, một dân Do Thái vẫn vững mạnh với Cựu Ước: 5 triệu người Do
thái, đếm được mấy ai tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu là
người Israel, sống tại Israel, giảng đạo tại Israel. Đức Mẹ, thánh Giuse, các
tông đồ đều là người Israel, vậy mà cho đến hôm nay họ vẫn quyết liệt từ chối
Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người. Hình
như ”không tin, cứng lòng” là định mệnh của họ. Số của họ là vậy. Ôi
Dân Ta mà chẳng nghe lời, Israel nào đâu có chịu, thì Ta đành mặc họ lòng chai
dạ đá, muốn đi đâu thì cứ việc đi. (Tv 80).
Họ có trách
nhiệm gì không trong việc cứng tin này, chúng ta không biết được. Nhưng thánh
Phaolô trong Rm 11,25 đã hé cho ta thấy kế hoạch của Thiên Chúa: Sau khi chư
dân đã tin, thì tất cả Israel cũng được ơn cứu độ. Việc Israel cứng tin chỉ
là sự kích thích cho dân ngoại (dân không phải Do thái) tin vào. Và khi nói đến
đó thánh Phaolô đã ca tụng sự khôn ngoan vô lường của Thiên Chúa và ý định của
Người. Ôi sâu thẳm muôn trùng, sự khôn ngoan thông minh của Thiên Chúa. Ý
định Người không ai dò thấu. Đường lối Người không sức dõi theo.
Chúng ta
Kitô hữu Việt Nam là Dân ngoại so với dân Israel, nhưng lại là Israel mới, là
Dân thánh. Israel cũ cứng tin, nhưng Israel mới là chúng ta vững tin và trong
khi cầu nguyện cho Israel cũ tức dân Do Thái tin Đức Kitô, thì chúng ta hãy vững
vàng tuyên xưng niềm tin của mình trong kinh Tin Kính : tin Ngôi Hai Thiên Chúa
đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.
Anphong
Nguyễn Công Minh, ofm