Người ta có cảm tưởng rằng Cựu Ước giới thiệu
với chúng ta một vị Thiên Chúa (trong tư cách là thần của người Do thái) là một
vị thần ghen tương, một vị thần ưa trả thù, trong khi đó Tân Ước lại trình bày
Người như một vị thần của tình yêu…
Điều đó không sai…Nhưng chúng ta cũng tìm được rất nhiều
diển tả về Vị Thiên Chúa tình yêu trong Cựu Ước…Cũng thế, Tân Ước cũng vẫn giữ
lại từ Cựu Ước chẳng hạn như đôi ba những dụ ngôn về thời phán xét hay những chỉ
thị về lề luật…Cho nên luôn luôn có chuyện để mà giải thích đi giải thích lại…Tuy
nhiên có một điều rất thật là chiều kích tròn đầy và vô tận của Thiên Chúa –
Tình Yêu chỉ có thể được mạc khải qua việc tự hạ của Người nơi Đức Giêsu…Tôi
không bảo rằng với một giáo lý khác về Thiên Chúa, bởi Đức Giêsu không có điều
hành bất cứ một thứ trường học nào về Thiên Chúa cả. Thế nhưng có một điều gì đấy
ở nơi Đức Giêsu; chính xác hơn là một điều gì đấy đã xảy đến với Thiên Chúa
nơi Đức Giêsu : khi Người sinh ra, khi Người chết, khi Người sống lại, một
điều gì đấy thực sự đã xảy ra nơi Thiên Chúa ! Có thể Người đã biến đổi…Người
đã nối kết với lịch sử, và chính trong lịch sử mà tình yêu của Người đã xuất hiện,
trong tương quan của Người với lich sử, trong thân xác Đức Giêsu : cái tính kể
đi kể lại về Thiên Chúa nơi Đức Giêsu là nguồn của một sự liên tục làm mới và
làm mới lại mà Sách Thánh quan tâm đến cách đặc biệt – Sách Thánh cũ cũng như mới
– và Sách Thánh mới chứng minh cho Sách Thánh cũ…
Làm thế nào để có thể hiểu được một sự thay
đổi như vậy?
Bàng cách ngày càng thấu hiểu hơn về điều mà người ta
gọi là Mạc Khải, là Sách Thánh, hay Lời của Thiên Chúa…Không phải là một bài diễn
thuyết, diễn văn Thiên Chúa đọc cho tác
giả thánh, và ông này chỉ việc ghi lại đúng những gì mình nghe đọc mà thôi…Suy
nghĩ kiểu như thế sẽ đưa đến trào lưu chính thống. Thực ra thì Thiên Chúa linh
hứng cho tác giả một hướng suy tư rất tâm đắc nào đó để có thể khai triển bài
viết của chính ông với tâm não của chính ông và với những ngôn ngữ đặc thù của
nền văn hóa ông đang sống. Và điều đó cho thấy là có rất nhiều những lời nói,
những câu chữ cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước làm cho chúng ta khó chịu…Chúng ta
không thể cầu nguyện được mỗi khi đầu óc vần vũ những câu chữ, những lời nói ấy…Cho
nên khi Cựu và Tân Ước đề cập đến những hình phạt và sự trả thù…thì luôn luôn
phải được giải thích lại cho thật rõ…
Chính cái tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa là
“từ khóa” chúng ta phải kiếm để có thể có những giải thích thích đáng…Bởi chính
Đức Giêsu vén màn – mạc khải – cho chúng ta biết Thiên Chúa như một Người Cha,
và chúng ta dần dần học cho biết về Người Cha ấy bằng cách chiêm ngưỡng khuôn mặt
của Chúa Cha được phản ảnh qua khuôn mặt của Đức Giêsu…Và xin được nhắc lại là
Đức Giêsu không có những bài diễn thuyết về Thiên Chúa : thế nhưng chúng ta vẫn
có được những lời giới thiệu rất ư là tuyệt vời Người nói về Chúa Cha trong Tin
Mừng thánh sử Gioan chẳng hạn…Mỗi khi nói về Chúa Cha, người ta thấy như có một
điều gì đấy đã xảy ra nơi Đức Giêsu tạo nên một âm vang hướng chúng ta về Chúa
Cha, và chính với cái âm vang này mà tâm hồn chúng ta cảm nhận được về sự thật
nơi Thiên Chúa…
Và cuối cùng thì điều gì giúp quyết định về
đức tin?
Rất khó nói…Tôi nghĩ rằng đức tin căn bản là một hành
vi bày tỏ sự tin tưởng, và đây có vẻ cũng là những cách sử dụng cổ xưa nhất của
động từ “tin” trong các ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy (theo các nghiên cứu
của Émile Beneviste)…Tức là hành vi mà qua đấy chúng ta đặt để niềm tin tưởng của
chúng ta nơi Thiên Chúa…Dĩ nhiên sự khác biệt nằm ở chỗ đứa trẻ thì nhìn thấy
cha mình còn người tín hữu thì không nhìn thấy Thiên Chúa. Thế nhưng dù sao đi
chăng nữa thì đứa trẻ cũng không hiển nhiên phải đặt sự tin tưởng của mình vào
tất cả, và thường xuyên nơi cha của mình…Rồi sẽ đến một lúc nào đó nó sẽ không
còn tin tưởng vào tất cả ! Và có thể là như thế mà đứa trẻ trưởng thành hơn
lên, nó làm chủ chính mình…Đương nhiên là nó sẽ không đánh mất mối tương quan với
cha, nhưng mối tương quan này đang chuyển biến dần…Đấy chắc chắn cũng là những
gì xảy đến – và phải xảy đến - cho người tín hữu khi người ấy đạt đến tuổi trưởng
thành…và sẽ có một sự lý luận nào đó được chiếu sáng cho thấy cần phải
có một đức tin cũng được chiếu sáng một cách khác…Một người tín hữu đã
đánh mất sự tin tưởng vào những lý lẽ để mà tin…cũng có nghĩa là anh ta rơi vào
nguy cơ đánh mất đức tin của mình, bởi vì anh ta đã đặt để niềm tin tưởng cùa
mình nơi các lý lẽ cũng như những chứng cớ thay vì hoàn toàn đặt tin tưởng nơi chính Thiên Chúa; sự phản chứng mà
khoa học dưa ra cho anh ta – nếu anh ta chấp nhận thử thách – sẽ giúp anh ta đặt
để trong tương quan thực sự với Thiên Chúa, không phải cách mù quáng, nhưng là
dịp để anh ta suy nghĩ về đức tin với tất cả những nguồn mà tâm trí anh có, và
đấy là lúc anh ta đạt tới một đức tin hoàn toàn có trách nhiệm, anh ta sẽ đủ khả
năng để đáp trả đức tin ấy, để chứng nhận cho đức tin của chính mình…
Con người thường hay tự đặt câu hỏi : Tôi là ai ? Vũ
trụ là gì ? Con người là gì ? Đồng thời họ cũng thường hay đặt vấn đề : Thiên
Chúa là Đấng nào ? Tuy nhiên những câu hỏi, những vấn đề được nêu lên ấy cũng
không ngăn cản việc họ tin vào Thiên Chúa cũng như tin vào chính mình, tin vào
người khác, và tin vào thế giới đến độ có thể trở nên rã rời, trong khi đó thì thế
giới không ngừng đổi thay, tha nhân liên tục gây khốn khổ cho họ và “cái tôi
- le je ” ở vai trò chủ động nơi họ sẽ sớm trở thành “cái tôi – le moi” lệ thuộc hay bổ
túc…trong những hóa thân đa diện…Đức tin là một bước nhảy bất ngờ từ phía bên
trên chính mình, bên trên những người khác và cả bên trên thế giới, đồng thời đức
tin cũng là một mối tương hợp rất hòa điệu với chính mình, với con người, với
vũ trụ, và đức tin buộc phải chúng ta phải dứt điểm với tất cả những gắn bó của
mình vào những thứ đó… đạt tới một điều gì đấy cao cả hơn chínhbản thân mình, đạt
tới Đấng vô cùng và vượt trên tất cả, tới Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên
Chúa, mặc dù vẫn chưa biết mình sẽ
phải có thái độ như thế nào đứng trước danh xưng ấy ngoài chuyện danh xưng ấy tạo
nên cho mình một niềm tin tuyệt đối…Sư nhận biết Thiên Chúa không ngừng buộc
mình phải thay đổi để việc đi đôi lương tâm của con người, của lịch sử và vũ trụ ngày một vững vàng hơn. Có
vẻ như thời đại chùng ta đã và đang trên đường để đạt tới một sự chắc chắn hơn
về phận số của nhân loại : một sự tiếp cận mới của Thiên Chúa hình như vừa mới bắt đầu…
Đức tin là hành động đi tới, tiến về phía trước, không
ngừng lại và cũng chẳng nhìn về phía sau, là hành vi để bản thân mình bị cuốn
hút vào một mức độ cuối của vô cùng vô tận mà chúng ta không biết gì hết ngoài
cái lý do mình hiện hữu…Không còn là chuyện phó thác đời sống chúng ta vào tay
các vị thần, nhưng là chuyện đứng ra chịu trách nhiệm về đời sống mình và tìm
cho nó một mục đích – một mục đích vô cùng vô tận, và chính cái mục đích này buộc
người ta lên đường và giữ người ta mãi mãi ở trên đường…Điều làm cho Đức Tin
Kiô giáo khác với niềm tin ban đầu và mọi niềm tin tôn giáo khác, đấy là người
Kitô hữu nhìn thấy Thiên Chúa qua một con người trong lịch sử của chúng ta : Đức
Giêsu Kitô : điều ấy cũng buộc người con Chúa không tìm cách tự tách rời mình ra khỏi trần gian và thời
gian. Và đó cũng là điều buộc chúng ta để cho đức tin của mình đón nhận chứng cứ
của sự thật lịch sử…
Nghĩa là Đức Tin không thoát khỏi trật tự của
lý trí sao?
Chính với lý trí của mình mà người tín hữu đến gần với
Thiên Chúa, bởi anh ta phải phủ nhận sự hiển nhiên giả tạo cho rằng các vị thần
có mặt khắp nơi để có thể đạt tới đức tin vào Vị Thiên Chúa duy nhất – Socrate đã chứng minh điều ấy
với cái giá của mạng sống mình…Tuy nhiên trước tiên tôi muốn trình bày đức tin
như một hành vi chứng tỏ sự tin tưởng của mình…
Đức tin, thưa bạn, là hành vi cùng Thiên Chúa tiến bước tay trong tay nhau…
với sự tin tưởng, đức tin là hành vi bước đi trước mặt Người, dưới tầm mắt nhìn
của Người – Kinh Thánh nói vậy – và đức tin là hành vi đi theo Đức Giêsu, như Tin Mừng dạy…Người ta khởi đầu hành
vi tiến bước, đi trước mặt, dưới tầm mắt nhìn…và đi theo ấy… như một đứa trẻ, với
một đức tin thơ ấu – có thể nói là mù quáng nữa – bởi người ta để cho mình được
dẫn đi mà không cần tìm hỏi xem nơi chốn người ta đến là nơi chốn nào, giống như
Abraham trên đường đi đến nơi chốn xa xôi ấy – nơi chốn mà Thiên Chúa muốn cho
các thế hệ con cháu ông định cư và phát triển…Thế nhưng người Kitô hữu sẽ không
mãi mãi là một đứa trẻ, và sẽ đến một ngày nào đó niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa
thay đổi, không mất đi, không giảm bớt, nhưng khác đi, bởi đã đạt đến lứa tuổi
đức tin cần phải được bàn cãi, lý luận…Anh ta biết là anh ta không thể xin xỏ mọi
sự nơi Thiên Chúa, đồng thời Thiên Chúa cũng không thể đòi hỏi mọi sự nơi anh
ta : chẳng hạn Người không thể đòi Abraham phải sát tế cho Người cậu Issac con
trai ông…Kinh Thánh đầy dẫy những câu chuyện tương tự như thế, bởi nội dung
Kinh Thánh phần lớn là những sự kiện thuộc thể văn kể chuyện chứ không là những
giáo huấn có tính lý thuyết…Kinh Thánh giúp cho biết cách để sống với Thiên
Chúa, biết cách ăn ở sao cho phù hợp với Người…bằng việc kể lại những cách thế Người ứng xử như thế nào với con người
và Người yêu thích cách con người ứng xử với Người làm sao…
Thế rồi đến một ngày nào đó người tin hữu nhận ra rằng
Kinh Thánh chỉ kể lại cho họ những câu chuyện…mà họ không cần phải tin, nhưng –
qua các câu chuyện ấy - Kinh Thánh đề cập
đến một câu chuyện hết sức thật: đấy là câu chuyện giữa Thiên Chúa và bản thân
mỗi chúng ta…Trong lịch sử, có những điều nhìn thấy được và những điều không thể
nhìn thấy…Không nên chỉ tin vào điều nhìn thấy được, bởi chính điều không nhìn
thấy được mới là sứ điệp của biến cố…Khi đã hiểu được như thế, người tín hữu đạt đến một đức tin “có tính phê bình” nhưng trưởng
thành…
Và nhìn vào bản thân mỗi chúng ta, chúng ta có thật sự
tin vào mình không, có thật sự tin rằng chúng ta hiện hữu không, có thực sự biết
mình là ai không ? Rồi…tôi có nghĩ rằng tôi tốt lành, tôi chân thật, tôi có một
giá trị, một tầm quan trọng không ? Tôi có một niềm tin nào đó nơi bản thân
mình giúp cho tôi hiện hữu mà không đặt ra cho mình quá nhiều những vấn nạn về
tôi, dựa trên kinh nghiệm của quá khứ và cảm thấy trước về một tương lai không
mấy chắc chắn…mà tôi không muốn nghĩ tới !!! Tôi có thể kể lại câu chuyện đời
tôi, nhưng sẽ không nói đến điều gì đấy đã hình thành nên tôi là tôi chứ không
là ai khác, đồng thời tôi cũng không biết nơi tôi có điều gì là của tôi nơi
chính tôi…đến độ tôi cho rằng mình đã được nhảo nặn bới không biết bao nhiêu
con người cũng như không biết bao nhiêu là những biến cố ngẫu nhiên…Tôi nhận ra
tôi qua cái nhìn của những người khác hơn là cái nhìn vào nơi sâu xa của chính
mình…Cuối cùng thì tôi thấy là cần phải đặt để sự tin tưởng vào cuộc sống đã được
dành cho tôi và không ngừng cuốn hút tôi về phía bên kia của giây phút hiện tại,
không ngừng đế tách tôi ra khỏi quá khứ, nghĩa là tách tôi ra khỏi chính mình…
để cho tôi có được sự may mắn là chính mình và được hiện hữu trong một tương lai hoàn toàn mới
mẻ…Và thế là đức tin vào Thiên Chúa chắc chắn đã hình thành nhờ một phần rất lớn
vào nhu cầu phải tin rằng tôi là một phần nào đó của tuyệt đối và rằng tôi có một
giá trị nào đó trong tầm nhìn của tha nhân khi họ chấp nhận tôi sống là vì họ…
Con người khi đó khám phá ra rằng mình như ở trong một
sự huyền nhiệm. Và đức tin vào Thiên Chúa chính là sự siêu việt tuyệt đối của một
sự siêu việt tương đối được tỏ hiện nơi bản thân tôi, bởi vì tôi không xuất
thân từ chính mình nhưng từ một lịch sử và một thế giới…Với lịch sử và thế giới
ấy tôi đã có mặt…Có mặt do một sự tình cớ thuần túy trong đó tôi cảm nhận một
tình yêu thuần khiết…Vậy là tôi đang ở một trạm quá cảnh…mà không thể nói rằng
tôi đang hướng về điều gì…nếu không phải
là tôi bị thôi miên bởi một ý chí yêu thương cho phép tôi sống như tất cả những
gì đang sống…Người ta không thê thoát khỏi huyền nhiệm được đâu…Người ta có thể
lý luận này/kia để mà phủ nhận Danh của Thiên Chúa trong huyền nhiệm…Thế nhưng
có phải là chính chúng ta – những con người – chúng ta đã tạo ra cái Danh ấy
không ? Hay chẳng phải là chính Thiên
Chúa đã mặc khải Danh Người nơi chúng ta với một sự vén màn không kìm nén được
về ý nghĩa của vô cùng vô tận sao ? Cho nên không chỉ có cảm xúc về đức tin mà
thôi đâu mà còn có cả sự cần thiết của tính dễ hiểu nữa, nghĩa là cần có một sự
kiếm tìm về ý nghĩa…Chính cái nhu cầu này đã kéo đức tin ra khỏi lòng sùng đạo
của các thời xa xưa – lòng sùng đạo đã thai sinh ra huyền thoại như một cố gắng
để giải thích về thời gian và không gian của thủa ban đầu tạo dựng, để rồi cuối
cùng đã biến sự cố gắng ấy thành triết lý nơi những người Hy Lạp; rồi cũng
chính việc tìm cho ra cái ý nghĩa ấy đã giúp có thể nghe được Lời cũng như sự
khôn ngoan của Thiên Chúa nơi người Do Thái, và đến lượt chính sự kiềm tìm cho
ra cái ý nghĩa này đã hình thành nên nền thần học luận lý nơi những người Kitô
hữu…Con người trong tư cách là Kiôt hữu đã trở nên một chủ thể trong tầm nhìn của
một Vị Thiên Chúa được tôn vinh như Công Lý tối cao và Tình Yêu vô cùng vô tận…Niềm
tin tưởng vào Thiên Chúa đã giúp cho người Kitô hữu dám đảm nhận trách nhiệm của
chính mình, trách nhiệm cho phép con người của thời hiện đại có thể giải thoát
chính mình khỏi tình trạng hạ thấp Thiên Chúa xuống ngang hàng với mình…để tiếp
tục đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và có thể sống đức tin của mình trong sự tự do
đích thật vốn là quà tặng của chính mình dành cho những người khác…
Dĩ nhiên khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa luôn
được duy trì…để con người mãi là chính mình nhưng không có sự cách biệt với
Thiên Chúa…hầu con người vươn cao hơn lên trong bản chất người của mình trong
chiều kích hướng về Thiên Chúa : và như vậy thì đức tin Công giáo sẽ duy trì được
khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người Giêsu mà vẫn diễn đạt được việc Đức
Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa – cả trong khoảng cách lẫn duy nhất…
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch