Nhân Ngày Lễ Của Mẹ sắp đến
vào Chúa Nhật 26 tháng 05 năm 2019,
xin dâng Mẹ đôi lời tưởng nhớ.
Trần Văn Cảnh
Trong các hình ảnh về gia đình mà mỗi người
chúng ta còn giữ lại, có lẽ hình ảnh về mẹ là sâu dậm và rõ rệt hơn cả. Nó rõ
rệt đến nỗi không chỉ được gợi lại qua các kỷ niệm của cuộc sống thường ngày, mà
còn được viết ra cả trong thơ văn. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần mở bất cứ một
cuốn tục ngữ ca dao nào ra, thì ta cũng đọc được nhan nhản những câu ca phác họa
hình ảnh mẹ.
1.
Bức tranh thứ nhất mà ca dao Việt
Nam vẽ về mẹ là bức tranh bà mẹ nghĩa đức dầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun
trồng gầy dựng cho con cái. Công lao này có thể được tóm gồm qua chữ ‘nghĩa‘ :
Công cha
như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra.
Có khi công
lao ấy lại được tổng hợp trong chữ ‘đức‘ :
Công cha
đức mẹ cao dầy,
Cưu mang
trứng nước những ngày thơ ngây.
Có một điều đặc biệt là hình ảnh về mẹ thường
gắn liền với hình ảnh cha. Hầu như không bao giờ ca dao nói về mẹ mà không nói
về cha. Ngay cả khi dùng những hình ảnh đối chọi nhau, như núi với nước, ca dao
luôn luôn nghĩ rằng cha mẹ là hai người, dẫu khác nhau, nhưng luôn bổ túc cho
nhau và không thể chia lià nhau được. Gia đình ấm cúng yên vui, bởi vậy, luôn
luôn là cái viễn ảnh, là cái khung trời trong đó mẹ được vẽ.
Vợ chồng là
nghĩa tào khang,
Chồng hoà
vợ thuận nhà trường yên vui;
Sinh con
mới ra thân người,
Làm ăn
thịnh vượng đời đời ấm no.
Là vợ hiền, là mẹ tốt, tất nhiên bà là yếu tố
căn bản gây nên cái đức của gia đình, làm cho cuộc sống được vuông tròn, trong
đó, chồng vinh hiển, con sang giầu. Và hình ảnh ấy không người chồng nào, không
người con nào quên được.
Cây xanh
thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giầu.
Đó là lý do khiến bất cứ một ai thành thân thành
người, cũng đều nghĩ rằng công ơn
đầu tiên là
của cha mẹ. Nét vẽ thứ ba trong bức tranh về bà mẹ nghĩa đức dầy công lao nuôi
nấng và gầy dựng cho con cái là công ơn chăm sóc vun trồng của bà.
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông
lại nở cây thông rườm rà.
Có cha sinh
mới ra ta,
Làm nên
thời bởi mẹ cha vun trồng.
Nét
vẽ vun trồng khó nhọc cho con cái thường được vẽ đậm và biểu tượng bằng hình ảnh
sương tuyết.
Cây khô
chưa dễ mọc chồi,
Bởi mẹ chưa
dễ ở đời với ta,
Non xanh
bao tuổi mà già,
Bởi vì
sương tuyết hoá ra bạc đàu.
2.
Bức tranh mẹ nghĩa đức dầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun trồng gầy dựng cho
con cái là bức tranh tổng quát thường được xếp hàng đầu và thường dễ thấy nhất
trong ca dao. Nhưng không chỉ có bức tranh ấy. Bên cạnh bức tranh nghĩa và đức
của mẹ, người ta còn thấy bức tranh thứ hai, có lẽ chi tiết hơn, nhưng không kém
vẻ kiều diễm. Đó là bức tranh người mẹ, bà giáo hiền dậy con. Trong cái khung
cảnh thái bình và hạnh phúc của nền kinh tế và văn hoá nông nghiệp, lý tưởng
giáo dục của các bà mẹ không vượt ngoài khuôn khổ lý tưởng giáo dục chung của xã
hội, trong đó, trai thì phải xuất xử, gái thì phải cửi canh :
Trên trời
có cái cầu vồng,
Kẻ chợ cầu
Muống, cửa đông cầu Rền
Vua trên
đền, cầu vàng cầu bạc,
Các lái
buôn cầu nước cầu non
Đôi ta cầu
của cầu con,
Con đẹp
giống mẹ, con dòn giống cha.
Con gái dệt
cửi trong nhà,
Con trai đi
học đỗ ba khoa liền.
Con lớn thì
đỗ trạng nguyên,
Hai con
tiến sĩ đỗ liền cả ba.
Vinh qui
bái tổ về nhà,
Bõ công đèn
sách mẹ cha nuôi thầy.
Có một ước vọng rõ rệt như vậy về cuộc đời cho
con cái, bà không ngần ngại đem ra áp dụng bằng cách khuyên dậy, răn bảo con cái
:
Con ơi,
muốn nên thân người,
Lắng tai
nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ
việc trong nhà,
Khi vào
canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì
đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài
kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối
được nghiệp nhà
Trước là
đẹp mặt, sau là ấm thân.
Trong việc dậy bảo, bên cạnh việc giáo dục gia
đình, việc giáo dục quốc gia, xưa là khoa bảng nho học, nay là thạc sĩ và tiến
sĩ đại học giữ một vai trò rất quan trọng.
Mừng nay
nho sĩ có tài,
Bút nghiên
dóng dả giùi mài nghiệp Nho.
Rõ ràng nên
đấng học trò,
Công danh
hai chữ trời cho dần dần.
Tình cờ
chiếm được bảng xuân,
Ấy là phú
quí đầy xuân quế hoè.
Một mai
chân bước Cống, Nghè,
Vinh qui
bái tổ, ngựa xe đưa mình.
Bốn phương
nức tiếng vang lừng,
Ngao du Bể
Thánh, vẫy vùng Rừng Nho.
Quyền cao
chức trọng Trời cho,
Bõ công học
tập, bốn mùa chúc minh.
Vui đâu
bằng Hội đề danh,
Nghề đâu
bằng nghiệp học hành là hơn.
Công cha
như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy xuôi.
Phu nhân
thời có công nuôi,
Toàn gia
hưởng phúc lộc trời ban cho.
Vì vậy, bà cố
sức :
Dậy con từ
thủa tiểu sinh,
Gần thầy,
gần bạn tập tành lễ nghi.
Học cho
cách vật trí tri,
Văn chương
chữ nghĩa, nghề gì cũng thông.
Và không quên
nhắc nhở con cái về cái gia nghiệp, về đức cần kiệm, về cách làm ăn:
Trăm năm như cõi trời chung,
Trăm nghề
cũng phải có công mới thành.
Cứ trong
gia nghiệp nhà mình,
Ngày đêm
xem sóc giữ gìn làm ăn.
Chữ rằng
‘Tiểu phú do cấn’,
Còn như
‘Đại phú‘ là phần ‘do thiên’.
Đừng trễ
nải, chớ ghét ghen,
Còn như lộc
nước, có phen dồi dào.
Bà cũng không quên rằng xã hội không chỉ có ‘sĩ‘,
mà còn có ‘nông’, ‘công’ và ‘thương’. Và chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng
nho, bà vẫn tâm niệm rằng :
Trời thu vừa gặp tiết lành,
Muôn dân
yên khỏe thái bình âu ca.
Muốn cho
yên nước, yên nhà,
Một là đắc
hiếu, hai là đắc trung.
Trong bốn
nghiệp ra công gắng sức,
Đường nghĩa
phương ta phải khuyên con.
3.
Cạnh kề hai bức tranh trên, còn một bức tranh thứ ba rất linh hoạt về mẹ. Đó là
bức tranh người mẹ đảm đang. Dĩ nhiên cũng như hai bức tranh trước, trong bức
tranh này, người mẹ tốt và người vợ hiền như chồng lên nhau thành một.
Sự đảm đang
của bà trước nhất là ở sự quán xuyến công việc cửa nhà.
Canh một
dọn cửa dọn nhà,
Canh hai
dệt cửi, canh ba đi nằm.
Lo cho
chồng học hành
Canh tư
bước sang canh năm,
Trình anh
dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa mai
Chúa mở khoa thi,
Bảng vàng
choi chói kìa đề tên anh.
Bõ công cha
mẹ sắm sanh,
Sắm nghiên,
sắm bút cho anh học hành.
Lo lắng săn
sóc nuôi nấng con cái
Miệng ru
mắt nhỏ đôi hàng
Thương con
càng lớn mẹ càng thêm lo
Nết đảm đang thứ hai của bà là ở sự thông thạo
công việc đồng áng.
Khó thay
công việc nhà quê,
Cùng năm
khó nhọc dám hề khoan thai.
Tháng chạp
thời mắc trồng khoai,
Tháng giêng
trồng đău, tháng hai trồng cà.
Tháng ba
cầy vỡ ruộng ra,
Tháng tư
bắt mạ thuận hòa mọi nơi.
Tháng năm
gặt hái vừa rồi,
Bước sanh
tháng sáu nước trôi đầy đồng.
Nhà nhà, vợ
vợ, chồng chồng,
Đi làm
ngoài đồng, sá kể sớm trưa.
Tháng sáu,
tháng bảy khi vừa,
Vun trồng
giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
Tháng tám
lúa giỗ đã đành,
Tháng mười
cắt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn
làm mấy tháng trời,
Lại còn mưa
nắng bất thời khổ trông.
Cắt rồi nộp
thuế nhà công,
Từ rầy mới
được yên lòng ấm no.
Và nét đảm đang thứ ba của bà được thấy rõ ở
việc thành thạo công thương.
Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi
thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng
ăn tết ở nhà,
Tháng hai
rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi
bán vải thâm,
Tháng tư đi
gặt, tháng năm trở về,
Tháng sáu
em đi buôn bè,
Tháng bảy,
tháng tám trở về đong ngô...
4.
Trong ba bức tranh trên, hình ảnh
đảm đang của bà mẹ đã được họa trong khung cảnh của một gia đình đầy đủ. Nhưng
cuộc sống không phải lúc nào cũng hoàn hảo như thế. Có những lúc người cha đi
vắng. Sự can đảm của người mẹ thực là cao cả. Bức tranh thành ra chứa chất những
nét đớn đau, vừa hào hùng, vừa bi thảm. Bức tranh thứ tư về mẹ phải là bức tranh
‘Mẹ can đảm sầu bi ‘
Anh đi, em
ở lại nhà,
Hai vai
gánh vác mẹ già con thơ.
Lầm than
bao quản muối dưa,
Anh đi, anh
liệu chen đua với đới.
Hoặc thì nét
nhớ nhung, nét cô đơn phảng phất khắp bức tranh.
Bác mẹ già
lơ phơ đầu bạc,
Con chàng
còn trứng nước thơ ngây.
Có hay
chàng ở đâu đây,
Thiếp xin
mượn cánh chắp bay theo chàng.
Bức tranh này thành ra thống thiết, nếu sự vắng
bóng của người cha là vĩnh viễn. Hình ảnh mẹ góa nuôi con côi thực là chơi vơi.
Thiệt hại
thay cho thằng bé nên ba,
Nó lăn, nó
khóc giữa nhà năm gian,
Khóc than
giữa chốn linh sàng,
Ba vuông
nhiễu tím đôi hàng chữ vôi.
Chớ thiệt
hại thay, người khác thì đã yên rồi,
Để cho
người sống ở đời trơ vơ.
Ba bốn năm
nhang khói thiếp tôi phụng thờ,
Đầu đội chữ
hiếu, tay xe chữ tình.
Chữ Hiếu
Trung, tôi gánh vác một mình,
Chẳng hay
chàng có thấu tình thiếp hăng ?
Đường đi
Khuất nẻo khói chùng.
Dĩ nhiên về người mẹ, ca dao Việt Nam không chỉ
họa có bốn bức tranh trên, mà còn họa biết bao bức tranh khác nữa, trong đó
nhiều hình ảnh khác được ghi nhận, nhiều nét vẽ khác được phác họa, nhiều sắc
mầu khác được tô điểm. Nhưng đó là bốn bức độc đáo hơn cả.
Trong những bức khác, nét vẽ có vẻ tượng trưng,
trừu tượng hơn, mà thoạt nhìn chẳng thấy nét nào về mẹ, như những bức tranh sơn
thủy, tứ thời, đồng áng. Nhưng nếu biết mẹ là biểu tượng của sự khôn ngoan, được
diễn tả bằng hình ảnh nước, mẹ là nguồn gốc và là kết quả của việc đồng áng,...thì
những bức tranh về mẹ đếm sao cho hết.
Có những bức khác, hình ảnh mẹ lại ẩn hiện trong
những cảnh khác của cuộc sống : cảnh cưới hỏi, cảnh đình đám, cảnh chợ búa,...
Đâu đâu, nếu biết nhìn, và muốn nhìn, thì người ta cũng thấy những hình ảnh mẹ.
Vì hình ảnh mẹ được vẽ nhiều và khắp nơi như vậy,
thành ra nhiều lúc và nhiều người không thấy mẹ, nhất là những lúc còn mẹ, có mẹ.
Nhưng khi nào mẹ mất, lúc đó người ta mới thấy mẹ ; đúng hơn là thấy thiếu mẹ./.
Paris, ngày
01.05.2019
Trần Văn Cảnh