Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Gs. Trần Văn Cảnh
Bài Viết Của
Gs. Trần Văn Cảnh
ĐẠO QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA LINH MỤC LÊ VĂN LÝ - VIỆN TRƯỞNG VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT 1970-1975
LỄ CỦA MẸ, TƯỞNG NHỚ MẸ BẰNG ĐỌC LẠI CA DAO
GIÁO HỘI VIỆT NAM TRONG NĂM 2016
GIỚI THIỆU SÁCH « VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN »
LINH ĐẠO TÌNH YÊU VỢ CHỒNG
RA MẮT SÁCH “NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS”
Giới thiệu tác phẩm Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris 1995-2015 do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN PARIS phát hành
Giáo dân cộng tác với giáo sĩ một cách tích cực và đắc lực
THỨ NĂM TUẦN THÁNH ĐỌC LẠI: «MỘT LINH MỤC CHỨNG NHÂN KITÔ»
TUẦN THÁNH ĐỌC LẠI BÀI THƠ « BỐN MƯƠI 1972-2012 » CỦA CHA CUNG CHI ĐINH ĐỒNG THƯỢNG SÁCH - VỀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC
ĐẠO QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA LINH MỤC LÊ VĂN LÝ - VIỆN TRƯỞNG VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT 1970-1975
Giáo dục con cái làm sao ?
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 13) Đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 12) Thành lập Dòng Mến Thánh Giá năm 1670
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 11) Thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ việt nam
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 10) Thành lập và tổ chức 17 Giáo Phận Tông Tòa, từ 1659 đến 1959
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 9) Tổ chức Công Đồng xây dựng chương trình truyền giáo ở Ayuthia năm 1664
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 8) THỜI KỲ TÔNG TÒA, 1659-1960, xây nền phát triển Giáo Hội
NOI GƯƠNG CÁC CHA DÒNG TÊN THỜI BẢO TRỢ 1615-1659, CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY NÊN TỰA VÀO HÀNG GIÁO SĨ TRUYỀN GIÁO TRÁCH NHIỆM
LẬP MỘT DỤ ÁN TRUYỀN GIÁO CÓ MỤC TIÊU RÕ RỆT VỀ LƯỢNG VÀ PHẨM CHO NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (Mừng Năm Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt Nam, Bài 6)
HÀNH TRÌNH CỦA MỘT ƠN GỌI (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, bài 11)
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 5) : THẨM ĐỊNH VIỆC TRUYỀN GIÁO THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM - Bài 4 : LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
SẮC CHỈ VENERABILIUM NOSTRORUM NGÀY 24-11-1960 - THIẾT LẬP PHẨM TRẬT GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
SẮC CHỈ « SUPER CATHEDRAM » NGÀY 09.09.1659 THÀNH LẬP HAI GIÁO PHẬN VIỆT NAM ĐẦU TIÊN
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM
GXVN PARIS KẾT THÚC «NĂM ƠN GỌI» Nghe chia sẻ về đề tài: « Cộng đoàn là vườn ươm ơn gọi tận hiến »
Tân phó tế vĩnh viễn GIOAN NGUYỄN SƠN cho chứng từ về ơn gọi của mình
Chứng từ ơn gọi, bài 8 : Gia đình là vườn ươm nuôi ơn gọi
Giáo hội Việt Nam đã phát triển thế nào qua 477 năm lịch sử truyền giáo của mình, 1533-2010 ?
Những đức tính tự nhiên của người tận hiến. (Chứng từ ơn gọi, bài 7)
« Làm thế nào để quản lý tốt việc con cái xử dụng Internet » ?
Đời sống huynh đệ của người tận hiến (Chứng từ ơn gọi, bài 6)
Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến (Chứng từ ơn gọi, bài 5):
Chứng từ ơn gọi, bài 4 - Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến
Đời sống siêu nhiên của người tận hiến
Chứng từ ơn gọi, (bài 2) Tự do trong đời sống tận hiến
Chứng từ Ơn gọi, (bài 1) Làm sao biết Chúa gọi mình
HỌ LÀ AI, BÀI THƠ VỀ NHỮNG ANH HÙNG TỬ ĐẠO
Di chúc của Các Thánh Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam
ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN TRONG ƠN GỌI TẬN HIẾN (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI 5):

Paris. Chủ nhật 19.04.2009, tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Marie Đào Kim Phượng (1), giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá tông đổ », nói chuyện với cộng đoàn về đề tài : « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Đây là đề tài học hỏi thứ năm trong chương trình « chứng từ ơn gọi », được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong « Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi, bài 1, đã được cha Nguyễn Bình chia sẻ vào chủ nhật 14.12.08 về vấn đề «Làm sao biết Chúa gọi mình» ? Bài 2, đã được cha Phan Tấn Khánh chia sẻ vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do trong đời sống tận hiến ». Bài 3, đã được chị Maria Vũ Thị Minh chia sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài « Đời sống siêu nhiên của người tận hiến ». Bài 4, đã được thầy Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về đề tài : « Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến ».

Mời bạn đọc trước hết nghe chứng từ ơn gọi của chị Marie Đào Kim Phương, rồi sau đó tìm hiểu đôi chút về đời sống giáo dân tận hiến “Nữ Trợ tá tông đồ », đời sống mà chị Phượng đã quyết định dấn thân một cách dứt khoát 27 năm qua, từ 1982.

 

Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến

Sau Phúc Âm, theo lời mời của Đức Ông Mai Đức Vinh, chị Marie Đào Kim Phượng lên chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Chị Phượng nói : « Kính thưa Đức Ông, quí Cha, quí Thầy, quí ông bà, quí bác, quí anh chị và quí bạn trẻ,

Hình 1 : Chị Đào Kim Phượng

Vâng lời Đ. Ô. hôm nay con xin chia sẻ với cộng đoàn vài nét về sự độc thân trong đời sống tận hiến. Đời sống tận hiến ở đây bao gồm những người đi tu và những người giáo dân tận hiến.

Nhưng trước hết, tưởng cũng nên nói vài lời về hai chữ « độc thân » trong sự đối chiếu với đời sống lứa đôi (hay đời sống vợ chồng). Người Việt nam mình hay nói nôm na là : con người ta lớn lên, một là đi tu, hai là lập gia đình. Nhưng trong cách nói đó đôi khi có cái tiêu cực như : đi tu vì không lấy được ai, hay không tu được thì kiếm ai mà lấy. Nói như vậy thì cả hai đàng đều là không có tự do và không có hứng thú. Trong khi cả hai bậc sống đều là tốt đẹp cả và đều đáng cho người ta hâm mộ và đeo đuổi.

Thưa quí bác và quí anh chị ở đây, có ai trong chúng chẳng từng nghe hoặc nói : « cô này đẹp vậy mà đi tu, uổng quá » (làm như chỉ có những người xấu xí mới nên đi tu), hay bậc cha mẹ là người công giáo siêng năng đi nhà thờ, thấy một anh chàng thanh niên đẹp trai, học giỏi, có thể là bác sĩ, kỹ sư mà đi tu thì thay vì mừng cho Giáo Hội, lại tiếc thầm mình chưa kịp gả con gái. Hai câu chuyện trên đây không phải là chuyện tiếu lâm để giải sầu cho quí vị mà để nói lên phần nào cái nhìn không đúng đắn của một số người. 

Nói có sách mách có chứng, chúng ta thử lật xem Thánh Kinh nói gì về đời sống độc thân vì Nước Trời. Ngay những trang đầu Thánh Kinh, sau khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chúng ta thấy : « Đức Chúa là Thiên Chúa phán : « Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú… Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được một trợ tá tương xứng. .. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. » (ST 2, 18-22). Vài câu sau đó chúng ta lại đọc thấy : « Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và TC phán với họ : « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất ». » (ST 1,28). Rõ ràng con người phải lập gia đình thì mới sinh sôi nảy nở và làm đầy mặt đất.

Như vậy, vào thuở ban đầu con người ta có nam, có nữ, có vợ, có chồng, có con có cái. Thế thì hôm nay tại sao trong Giáo Hội lại có những người sống độc thân tận hiến ?

Nhân năm nay là Năm Thánh Phaolô, chúng ta hãy thử tham khảo các thư của ngài xem ý kiến và những lời khuyên dạy của vị thánh tông đồ này ra sao.

1Co 7 :  « 1Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi : đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 2 Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này : họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn bị thiêu đốt… »

25 « Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người - nhờ Chúa thương – đáng được anh em tín nhiệm. 26 Vậy tôi nghĩ rằng : vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì…. »

32 « Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng ».

Nhưng đời sống độc thân ở đời này - ở trần gian này - đối với con người bằng xương, bằng thịt như chúng ta là một dấu hỏi lớn, nếu không nói là một ngờ vực, đối với những người đi tu. Làm sao để sống độc thân ? Nói trắng ra là làm sao để sống một mình trong sự thiếu vắng « một bóng người » (hay một « bóng hồng ») ? Trái tim của người muốn sống đời tận hiến cũng tiềm tàng tình phụ tử hay tình mẫu tử. Làm sao để khỏa lấp cái trống vắng quá lớn đó ? Khi người ta ví vợ hay chồng mình là « một nửa của tôi » (ma moitié), vậy thì người độc thân tận hiến là một sự « bất toàn » hay sao ? Cái giá phải trả có quá đắt không ?

Đây có thể là một sự lo lắng của cha mẹ có con muốn đi tu và cũng có thể là một đắn đo của chính đương sự. Sự đắn đo, suy nghĩ này rất chính đáng và cần thiết vì con người đó là một con người bình thường chứ chưa là thiên thần. Người tận hiến không phải là người không có tình cảm, không có rung cảm, không có trái tim, không biết yêu thương hay không cần được yêu thương. Và dĩ nhiên là trong mỗi bậc sống đều có Ơn Chúa, nhưng Ơn Chúa không miễn cho con nguời sự suy nghĩ, cân nhắc trước khi đi đến quyết định chọn đời sống « một mình » trong tự doý thức – ý thức từ khước Tình Yêu con người và một mái ấm gia đình.

Vâng, người quyết định chọn đời sống tận hiến là người chọn « đời sống một mình » (solo) nhưng chữ « một mình » này không đồng nghĩa với « cô đơn trường kỳ ». Cái đời sống không có « bóng hồng » (hay « hoàng tử của lòng em ») mà tôi vừa nêu trên đây có một « khoảng trống đợi chờ » nhưng đợi chờ được một Tình Yêu bao la của Thiên Chúa lấp đầy. Nó là một thửa đất mà Thiên Chúa sẽ làm nên mầu mỡ, sinh hoa kết trái ra những đứa con tinh thần thay cho những đứa con xác thịt mà họ không thể có.  Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến không phải là một gò bó, ràng buộc, thiếu thốn mà là một khả năng yêu thương rộng mở, sẵn sàng, để họ không thuộc về riêng ai nhưng thuộc về tất cả, vì Chúa và với Ơn Chúa. Không có Ơn Chúa thì việc đó thật là ngoài sức con người.

Trong đức tin Công giáo, chúng ta tin là con người từ Thiên Chúa mà đến và ơn gọi của con người là trở về với Thiên Chúa. Cuộc đời của con người ở trần thế chỉ là một cuộc hành hương tiến về Nước Trời nơi con người sẽ được chia sẻ đời sống viên mãn và vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Đó là cùng đích và hy vọng của nhân loại. Nơi đó không còn là nơi « dựng vợ, gả chồng » nữa.

Và đời sống độc thân tận hiến là một tiên báo, một dấu chỉ cho cuộc sống đó. Thiên Chúa sẽ là tất cả cho tất cả. Giáo Hội quả quyết đời sống độc thân tận hiến là một ơn Chúa ban cho Giáo Hội và cho nhân loại. Người độc thân tận hiến không những sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa ở đời sau mà ngay từ đời này. Amen.

Đào-Kim-Phượng

Giáo xứ VN Paris, 19-04-2009

 

LỜI KẾT 

Giáo hội Việt Nam đang hồ hởi chuẩn bị cử hành NĂM THÁNH 2010, kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Chính Tòa Việt Nam (1960-2010). 50 năm đầy hồng ân Chúa, nhưng cũng là 50 năm mà công việc tông đồ truyền giáo có chiều không tăng mà lại giảm. Phải chăng đây là dịp để giáo sĩ và giáo dân việt nam nhìn lại để dấn thân hơn và hữu hiệu hơn trong công việc tông đồ ? Phải chăng đây là lý do thức đẩy các giám mục lưu tâm nhiều hơn đến việc truyền giáo ? thúc đẩy các giáo dân dấn thân hơn để trợ giúp các giám mục trong việc tông đồ ?

Năm 1533, Theo « Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục », vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu lén đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay (2). Năm 1533 được các nhà làm sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi là năm đầu tiên Công Giáo đi vào xã hội Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ gọi là BẢO HỘ, 1533-1659. Kết quả, nhờ sự giảng đạo của các cha Đaminh, Phanxicô và nhất là Dòng Tên, đặc biệt là cha Đắc Lộ, vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam, chưa có giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000  tín hữu, 20.000 trong Nam và 80.000 ngoài Bắc  (3) , với 265 nhà thờ (4). Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra Chữ Quốc Ngữ.

Ngày 09.09.1659 ÐTC Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : ÐC François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngòai, thêm quyền cai quản  5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào ; và ÐC Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành. Từ đây, ngày 09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam : thời kỳ TÔNG TÒA (5). Kết quả là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận, có 130.000 người tử vì đạo, trong đó 117 vị đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Hiển Thánh tại Rôma ngày 19/06/1988, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh, có 2.096.540 tín hữu, trên tổng số 29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số (6). Số giáo hữu tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo dục và xã hội cho Việt Nam.

Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam; các giáo phận hiệu toà trở thành CHÍNH TÒA với 3 toà Tổng giám mục ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thành lập thêm ba giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên trong giáo tỉnh Sài Gòn. Số các giáo phận tăng lên thành 20 : 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở giáo tỉnh Huế và 6 ở giáo tỉnh Sài Gòn. Sau 50 năm Chính Tòa (1960-2010), « Tính đến 31-12-2007, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo phận : 10 ở Giáo tỉnh Hà Nội, 6 ở Giáo tỉnh Huế và 10 ở Giáo Tỉnh TP-HCM, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 38 giám mục, 3.510 linh mục, 14.968 tu sĩ nam nữ, 6.087.659 tín hữu trên tổng số 85.154.900 người, chiếm 7,15% dân số. Trong gần 50 năm qua, GHCGVN đã có thêm 6 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi » (7). Nhưng tỷ số sút 0.02%. Đây là một vấn đề lớn mà Giáo Hội Việt Nam hôm nay phải đặt ra cho mình. Kết quả truyền giáo chẳng những không tăng, mà còn giảm, tại sao ? 

Paris, ngày 26 tháng 04 năm 2009

Trần Văn Cảnh

 Chú thích 

(1). Chị Marie Đào Kim Phượng là thứ hai trong một gia đình tin lành, có 7 chị em. Từ tấm bé, được đào tạo trong tinh thần tông đồ, chị đã muốn hiến đời mình làm thừa sai. Sang Pháp từ 1975, gia đình chị cư ngụ gần Toulouse. Sau tú tài, chị học chuyên về vi tính. Tốt nghiệp năm 1981, chị làm việc ở Lộ Đức. Ở đây, chị được dịp tham dự Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế năm 1981, được quen biết các chị Nữ Trợ Tá Tông Đồ và được dịp gặp một linh mục, trao đổi và học đạo với ngài. Chị đã trở lại đạo công giáo và lãnh bí tích thêm sức năm 1982. Đầu niên học 1982,  chị lên Paris và bắt đầu giai đoạn giai đoạn đào tạo Nữ Trợ tá Tông Đồ. Tính đến nay, 2009, chị đã là Nữ Trợ Tá Tông Đồ được 27 năm. 

Sống ở Paris, chị tham gia vào nhiều sinh hoạt của Giáo Xứ Việt Nam. Không kể những sinh hoạt cơ bản trong các đoàn, ban, nhóm công giáo tiến hành, chị Đào Kim Phương đặc biệt tận tâm trong việc giáo dục thanh thiếu niên và dậy giáo lý cho họ cũng như đã đảm trách lớp đào tạo giáo lý viên tại GXVNP (2006-2008).

Chị cũng rất hăng hái tham dự Hội Đồng Mục Vụ của Giáo Xứ, trong nhiều chức vụ khác nhau :

·         Phó thủ quĩ 1987-1990,

·         Phó chủ tịch, đặc trách văn hóa và tuổi trẻ 1990-1994,

·         Tổng thơ ký 1994-1997

·         Phó Chủ Tịch 2001-2003, 2008-

 

(2). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q. XXXIII, tập II, tr.301, Viện Sử học, NXB Giáo dục 1998

(3) HĐGMVN, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, tr. 189

(4) Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn : Đường mới, 1972, tr. 129

(5) Trần Văn Cảnh,

 http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=641

(6) HĐGMVN, sđd, tr. 199

(7) Lm Nguyễn Ngọc Sơn  http://www.vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=65180

 

Tác giả: Gs. Trần Văn Cảnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!