Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Gs. Trần Văn Cảnh
Bài Viết Của
Gs. Trần Văn Cảnh
ĐẠO QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA LINH MỤC LÊ VĂN LÝ - VIỆN TRƯỞNG VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT 1970-1975
LỄ CỦA MẸ, TƯỞNG NHỚ MẸ BẰNG ĐỌC LẠI CA DAO
GIÁO HỘI VIỆT NAM TRONG NĂM 2016
GIỚI THIỆU SÁCH « VĂN HÓA VÀ ĐỨC TIN »
LINH ĐẠO TÌNH YÊU VỢ CHỒNG
RA MẮT SÁCH “NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS”
Giới thiệu tác phẩm Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris 1995-2015 do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN PARIS phát hành
Giáo dân cộng tác với giáo sĩ một cách tích cực và đắc lực
THỨ NĂM TUẦN THÁNH ĐỌC LẠI: «MỘT LINH MỤC CHỨNG NHÂN KITÔ»
TUẦN THÁNH ĐỌC LẠI BÀI THƠ « BỐN MƯƠI 1972-2012 » CỦA CHA CUNG CHI ĐINH ĐỒNG THƯỢNG SÁCH - VỀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC
ĐẠO QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA LINH MỤC LÊ VĂN LÝ - VIỆN TRƯỞNG VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT 1970-1975
Giáo dục con cái làm sao ?
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 13) Đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 12) Thành lập Dòng Mến Thánh Giá năm 1670
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 11) Thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ việt nam
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 10) Thành lập và tổ chức 17 Giáo Phận Tông Tòa, từ 1659 đến 1959
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 9) Tổ chức Công Đồng xây dựng chương trình truyền giáo ở Ayuthia năm 1664
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 8) THỜI KỲ TÔNG TÒA, 1659-1960, xây nền phát triển Giáo Hội
NOI GƯƠNG CÁC CHA DÒNG TÊN THỜI BẢO TRỢ 1615-1659, CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY NÊN TỰA VÀO HÀNG GIÁO SĨ TRUYỀN GIÁO TRÁCH NHIỆM
LẬP MỘT DỤ ÁN TRUYỀN GIÁO CÓ MỤC TIÊU RÕ RỆT VỀ LƯỢNG VÀ PHẨM CHO NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (Mừng Năm Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt Nam, Bài 6)
HÀNH TRÌNH CỦA MỘT ƠN GỌI (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, bài 11)
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (Bài 5) : THẨM ĐỊNH VIỆC TRUYỀN GIÁO THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM - Bài 4 : LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
SẮC CHỈ VENERABILIUM NOSTRORUM NGÀY 24-11-1960 - THIẾT LẬP PHẨM TRẬT GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
SẮC CHỈ « SUPER CATHEDRAM » NGÀY 09.09.1659 THÀNH LẬP HAI GIÁO PHẬN VIỆT NAM ĐẦU TIÊN
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM
GXVN PARIS KẾT THÚC «NĂM ƠN GỌI» Nghe chia sẻ về đề tài: « Cộng đoàn là vườn ươm ơn gọi tận hiến »
Tân phó tế vĩnh viễn GIOAN NGUYỄN SƠN cho chứng từ về ơn gọi của mình
Chứng từ ơn gọi, bài 8 : Gia đình là vườn ươm nuôi ơn gọi
Giáo hội Việt Nam đã phát triển thế nào qua 477 năm lịch sử truyền giáo của mình, 1533-2010 ?
Những đức tính tự nhiên của người tận hiến. (Chứng từ ơn gọi, bài 7)
« Làm thế nào để quản lý tốt việc con cái xử dụng Internet » ?
Đời sống huynh đệ của người tận hiến (Chứng từ ơn gọi, bài 6)
Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến (Chứng từ ơn gọi, bài 5):
Chứng từ ơn gọi, bài 4 - Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến
Đời sống siêu nhiên của người tận hiến
Chứng từ ơn gọi, (bài 2) Tự do trong đời sống tận hiến
Chứng từ Ơn gọi, (bài 1) Làm sao biết Chúa gọi mình
HỌ LÀ AI, BÀI THƠ VỀ NHỮNG ANH HÙNG TỬ ĐẠO
Di chúc của Các Thánh Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam
TRIỂN LÃM « THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS TẠI Á CHÂU

 

350 năm lịch sử và mạo hiểm : 1658-2008

từ 08/01 đến 15/03/2008

tại 128, rue du Bac, PARIS

Thứ ba ngày 08 tháng 01 năm 08 vừa qua, hồi 11 giờ, lễ Khai mạc triển lãm về đề tài « Các Sở Thừa Sai Hải Ngoại Paris ở Á Châu : 350 năm lịch sử và mạo hiểm », do Cha Gérard MOSSAY, giám đốc Văn Khố và các cộng sự viên thực hiện, đã được long trọng cử hành tại Chủng Viện Thừa Sai, 128 rue du Bac, 75007 Paris.  

Năm phòng đã được thực hiện và mở cửa. Ðó là những phòng sau đây :

- Hầm dưới nhà nguyện, về 23 thánh thừa sai hải ngoại Paris, đã được phúc tử đạo ở Viêt Nam, Ðại Hàn và Trung Hoa ;

- Phòng các Vị Tử Ðạo, về kỷ vật của các thừa sai khi xưa, đặc biệt của các vị tử đạo ;

- Phòng François PALLU, về 5 nước Việt Nam, Lào, Cao Mên, Thái Lan và Miến Ðiện

- Phòng Lambert de LA MOTTE, về các nước Ấn Ðộ, Nam Ðương, Mã Lai, Ðại Hàn, Nhật, Trung Hoa, Ðài Loan và Madagascar

- Phòng COTOLENDI, về các công trình mà các thừa sai đã đóng góp vào Á Châu về các khoa học tự nhiên, sáng tác dịch thuật, in ấn xuất bản

Tất cả năm phòng triển lãm đều mở cửa từ thứ ba 08 tháng 01 cho đến hết ngày 15 tháng 03 năm 2008, và mở cửa sáu ngày trong tuần, từ thứ ba đến chủ nhật, từ 14 đến 18 giờ, để đón khách thập phương. 

1. Những đóng góp văn hoá, nghệ thuật, khoa học và kinh tế của các thừa sai cho Á Châu

Năm phòng triển lãm đã được thiết kế theo hai nhóm đóng góp của các thừa sai hải ngoại Paris cho Á Châu :

·        Nhóm tôn giáo và thiêng liêng, đặc biệt trình bày những đóng góp của các thừa sai hải ngoại Paris vào việc xây dựng các giáo hội địa phương và việc sống và làm chứng các giá trị thiêng liêng. Những đóng góp này được triển lãm trong hai phòng : phòng hầm dưới nhà nguyện Hiển Linh và phòng Các Vị Tử Ðạo.

·        Nhóm văn hoá, nghệ thuật, khoa học và kinh tế đặc biệt trưng bày những đóng góp của các thừa sai trong những lãnh vực xã hội trần thế, như ngôn ngữ, văn hóa, nghiên cứu, khoa học, kỹ thuật, kinh tế. Chúng được trưng bày trong ba phòng triển lãm Á Châu : phòng François Pallu, phòng Pierre Lambert de La Motte và phòng Ignace Cotolendi. 

Sau đây, xin mời bạn đọc đi xem nhanh ba phòng triển lãm Á Châu, rồi dừng lại tỷ mỷ hơn ở những căn trưng bày về văn hoá việt nam

Qua cổng vào, số 128, rue du Bac, 76007 Paris, một sân nhỏ rộng cỡ 200 m2 mở ra. Trước mặt là Nhà nguyện Hiển Linh. Phía trái là nhà sách phía đường Babylone. Phía phải là một phòng tiếp khách nhỏ. Giữa phòng tiếp khách và Nhà nguyện Hiển Linh, một cổng sắt dẫn vào không gian thứ hai với một vườn nhỏ, có đường dẫn đến nhiều dẫy nhà nhiều tầng cuốn quyện vào nhau, trong đó có dẫy nhà chính ba tầng hoàn thành vào năm 1732 bằng cách nối liền hai căn nhà xây từ năm 1663. Trong không gian thứ hai này có 3 phòng triển lãm về Á châu : -Phòng Lambert de LA MOTTE, về các nước Ấn Ðộ, Nam Ðương, Mã Lai, Ðại Hàn, Nhật, Trung Hoa, Ðài Loan và Madagascar. Và -Phòng COTOLENDI, về các công trình mà các thừa sai đã đóng góp vào Á Châu về các khoa học tự nhiên, sáng tác dịch thuật, in ấn xuất bản. 

Ngay cửa vào tầng trệt dẫy nhà chính, nhiều hướng dẫn viên đợi sẵn chỉ lối cho khách thập phương vào xem triển lãm. Phòng đầu tiên là -Phòng François PALLU, về 5 nước Việt Nam, Lào, Cao Mên, Thái Lan và Miến Ðiện. Phòng gồm hai căn. Căn đầu trưng bày hình bốn giám mục tiên khởi và sáng lập ra Thừa Sai Hải Ngoại Paris là François de Montmorency-Laval (1623-1708), François Pallu (1626-1684), Ignace Cotolendi (1630-1679) và Pierre Lambert de La Motte (1630-1662). Rồi lịch sử tóm tắt, tập tục và niềm tin tôn giáo, qua các hình ảnh và hiện vật của 5 nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, Thái Lan và Miến Ðiện. Và những đóng góp về ngôn ngữ, văn hoá của các cha thừa sai cho các nước này, đặc biệt là việc biên soạn tự điển, nghiên cứu ngôn ngũ, dịch thuật hoặc biên soạn văn hoá. Căn thứ hai, nhỏ hơn, đặc biệt dành cho văn học việt nam với sự đóng góp của các cha thừa sai trong bốn khía cạnh : biên soạn tự điển, chép sách chữ nôm, sáng tác sách quốc ngữ và nghiên cứu về văn hóa việt nam. Chúng ta sẽ trở lại căn này trong phần hai khi nói về Việt Nam. 

Ra khỏi phòng François Pallu, quẹo tay mặt, cứ tiếp tục hành lang, đi đến khu nhà « thỉnh sinh », khách thăm sẽ đến phòng Lambert de La Motte. Ðây là phòng dành riêng cho 8 nước Ấn Ðộ, Nam Dương, Mã Lai, Ðại Hàn, Nhật, Trung Hoa, Ðài Loan và Madagascar. Nhiều hình, họa, tranh, hiện vật, sách vở, bài viết được trưng bày để giới thiệu về những tập tục, phong hóa, niềm tin tôn giáo của các dân tộc và quốc gia này. 

Ra khỏi phòng Lambert de La Motte, vẫn quẹo tay phải, tiếp tục hành lang nhà « Thỉnh Sinh », chúng ta sẽ đến phòng Cotolendi. Trong phòng này, khách thăm khám phá ra nhiều công trình nghiên cứu về thảo mộc á châu do các thừa sai thực hiện. Nhiều tên tuổi thừa sai đã được nhận ra, trong đó phải kể đến những thừa sai au đây : Émile Bodinier, Henri Bon, Jean Marie Delavay, Jules Dubernard, Paul Farges, Urbain Faurie, Auguste Léveillé, Jean Monbeig, Jean Soulié, Émile Taquet,…Một số thừa sai khác lại đã đóng góp trong lãnh vực địa chất, khoáng chất,..tiền sử, như Léopold Cardière, Pierre Dourisboure, Jean-Baptiste Guerlach, Henri Arnouix de Pirey, Daniel Léger, Charles Arnoux, Henri Fontaine,…Một số thừa sai khác lại góp phần làm dồi dào văn hóa các nước địa phương bằng dịch các tác phẩm thánh kinh sang ngôn ngữ địa phương, như trường hợp cha Jean Basset (1662-1707) đã dịch Tân Ước sang tiếng trung hoa….Một số thừa sai khác lại nghiêng hẳn về những đóng góp kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật in ấn. Năm 1902, cha Jourdain đã tự chế ra một máy in ở Nam việt. Năm 1823 thừa sai P. Jaccard đã giới thiệu với vua Minh Mạng kỹ thuật in lithographie. Từ 1870, cac cha thừa sai đã lập nhiều nhà in tại Á Châu. Vào năm 1894, người ta đếm được cả trên chục nhà in : 1 ở Ðại Hàn, 3 ở Se-tchoan, 1 ơ Ynnan, 1 ở Kouy-tcheou, 2 ở Bắc Việt, 1 ở Siam, 1 ở Miến Ðiện, 1 ở Pondichéry, …Và có lẽ nhà in tối tân nhất là nhà in Nazareth ở Hồng Kông, thành lập năm 1885. Vào năm 1934, nhà in Nazareth in rất nhiều thứ tiếng : tiếng tầu (28%), tiếng việt (17,4%), tiếng la tinh (17,4%), tiếng pháp 11,9%, và nhiều tiếng khác nữa, như tiếng anh, tiếng chamorro, tiếng tây tạng, tiếng lào, tiếng mã lai, tiếng đại hàn, tiếng bahnar, tiếng canaque, lolo, aino, nhật,…Từ 1885 đến 1934, trên 358 án bản giáo lý và sách cầu kinh, 400 ấn bản sách tu đức, 164 ấn bản sách mục vụ và giáo luật, 127 ấn bản hộ giáo và tranh luận. 

Ði thăm một vòng ba phòng triển lãm lấy tên ba vị Giám Mục thừa sai đầu tiên François Pallu, Pierre Lambert de La Motte và Ignace Cotolendi, một ấn tượng mạnh đập vào cái nhìn của khách thập phương là mạo hiểm bao la của các thừa sai, trải dài khắp Á châu, từ Nhật, Ðại Hàn, Trung Hoa, Ðài Loan, qua Việt Nam, Lào, Cao Miên, Thái Lan, Miến Ðiện, đến Án Ðộ, Nam Dương, Madagascar. Và một cảm tưởng thán phục xuất hiện trong tâm tư mỗi người về những mạo hiểm tự nhiên, những khám phá và đóng góp vào văn hoá cũng như khoa học nghệ thuật và cuộc sống kinh tế hằng ngày của các thừa sai.   

2. Những đóng góp của các cha thừa sai Paris vào văn hóa việt nam

Vế những đóng góp của các thừa sai cho văn hóa việt nam, bốn công việc đã đặc biệt được trình bày : việc nghiên cứu ngôn ngữ việt nam và soạn tự điển việt nam, việc viết sách đạo bằng chữ nôm, việc nghiên cứu văn hoá ở Huế và việc xuất bản sác sách quốc ngữ đầu tiên.

Trong căn cuối cùng phòng François Pallu, ba tủ kính đặc biệt thu hút chú ý khách thăm viếng, trưng bày các tự điển, các sách đạo viết bằng chữ nôm và công trình nghiên cứu văn hóa ở Huế.

21.  Về việc làm tự điển, qua một bài tóm lược vắn tắt, cha Gérard MOUSSAY đã giới thiệu 7 người đầu tiên nghiên cứu ngôn ngữ việt nam và làm tự điển việt nam, qua hai thế hệ khác nhau. Thế hệ latinh và thế hệ pháp.

·        Alexandre de Rhodes ; Dictionarium Annamiticum et Latinum - Romae :Typis, sumptibus ejusdem Sacr. Congreg., 1651. – 3 ff. Linguae Anamiticae sv Tunchinensis brevis Declaratio p. 31 ; 4°.

·        Pierre Pigneaux, évêque d’Adran ; Vocabularium Anamitico-Latinum - Pondichéry, 1772. - [70]-729 p. ;  35 cm.

·        Jean-Louis Taberd ; Dictionarium latino-anamiticum ;– Se-rampore : ex Typis J. C. Marshman, 1838. - LXXXVIII-708-VIII-135 p. ; 28 cm.

·        Joseph Theurel ; Dictionarium anamitico-latinum - Ninh Phu : Ex Typis Missionis Tunquini occidentalis, 1877. - XXX-566-71 p. ; 28 cm.

·        Jean Génibrel ; Dictionnaire annamite-français - Saigon : Imprimerie de la Mission à Tân-Dinh, 1898.- 987 p., 2 col.

·        Gustave Hue ; Dictionnaire annamite-chinois-français - Hanoi : Impr. Trung Hoa, 1937. - 1199-7 p. ; 27 cm.

·        Eugène Gouin ; Dictionnaire vietnamien chinois français - Saigon : Impr. d'Extrême-Orient, cop. 1957. - [5]-1606-40 p. ; 32 cm. 

22. Về các sách đạo bằng chữ nôm, những cuốn do các thừa sai biên soạn sau đây đã được trưng bày :

·        Joseph THEUREL ; Phép lần hạt mân côi 5 sự thương ; 1868

·        Pierre GENDREAU ; Tháng mân côi ; 1898

·        Charles JEANTET ; Bảy phép bí tích ; 1865

·        Pierre RETORD ; Kinh nguyện ; 1845

·         Isidore COLOMBERT ; Giáo lý chầu nhưng ; 1882 

23. Về việc nghiên cứu văn hóa ở Huế, một số tác phẩm của cha Léopold Cadière và dăm bảy số báo « Bulletin des Amis-Vieux Huế » đã được trưng bày. 

24. Về việc sáng tác và xuất bản các sách quốc ngữ đầu tiên, phòng triển lãm thứ năm Ignace Cotolendi đã trưng bày những cuốn sách sau đây :

·        Alexandre de RHODES (Cha Ðắc Lộ) ; Phép giảng tám ngày ; 1651

·        Pierre CADRO (Cố Lương) Sách dẫn đàng cho đấng làm thầy sửa mình và làm việc bậc mình nên ; Tây Ðàng Ngoài ; 1886

·        Sách tu sĩ tùy thân ; Tân Ðịnh ; 1889

·        Pierre CADRO ; Sách làm thầy tế lễ ; Cố Lương dọn ra tiếng Annam ; Nhà Chung Kẻ Sở ; 1889

·        Pierre LALLEMENT ; Sách bổn ; 1900

·        T. TRIẾT ; Hạnh các thánh, mỗi ngày mỗi truyện / linh mục T  Triết dịch ra tiếng Annam ; Hồng Kông : Nazareth ; 1904

·        A. TARDIEU ; Hạnh Ðức Cha Thể Mgr Cuenot (1802-1961) ; Làng Sông ; 1907

·        Albert SCHLICKLIN ; Sách dạy về gốc tích cội rễ sự đạo ; Kẻ sở ; 1908 

Ra về, nhiều khách thập phương ghé quán sách triển lãm, do một chị việt nam tình nguyện coi và bán. Người thì muốn tìm mua một cuốn sách mới, nhân dịp triển lãm. Kẻ thì hỏi nhau về cảm tưởng đi xem triển lãm.

Ða số đều phục về tổ chức qui củ ; về trưng bầy nghệ thuật ; về tài liệu giá trị.

Nhưng điều mà nhiều người phục hơn cả là sự mạo hiểm, lòng tận tình, chí hy sinh và óc sáng tạo truyền giáo của các thừa sai.

Họ « một tâm, một lòng » !

Họ « những người bạn hiền » !

Họ, những người đã muốn đáp lại tiếng Chúa gọi, « đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân » !

Paris, ngày 13 tháng 01 năm 2008

Trần Văn Cảnh

Một số hình ảnh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Tác giả: Gs. Trần Văn Cảnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!