Trong cuộc sống, ta thường
nghe nói đến những hi sinh, như hi sinh tiền của để làm việc từ thiện, bác ái,
giúp đỡ người nghèo khó; cha mẹ hi sinh làm việc vất vả cho con cái ăn học thành
người; các chiến sĩ hi sinh để tổ quốc được trường tồn; hy sinh hãm mình; các
Thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin, chân lý…
Có nhiều động lực khác nhau
tạo ra những hi sinh trong cuộc sống này…
Ta cùng tìm hiểu một số động
lực tạo ra sự hi sinh cao đẹp:
Động lực
hy sinh vì con cái, vìđồng loại; vì lý tưởng bảo vệ tổ quốc.
Ta cùng theo dõi một định
nghĩa về hi sinh trong tự điển Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam: “1. Hi sinh là
nhận về phần mình một cách tự nguyện sự mất mát lớn lao nào đó, vì một cái gì
cao đẹp. Hi sinh xương máu để dành độc lập. Chịu đựng mọi hi sinh.2. Chết vì
nghĩa vụ, lí tưởng cao đẹp. Tưởng nhớ các chiến sĩ đã hi sinh…”
Hi sinh là nhận về phần
mình một cách tự nguyên sự mất mát lớn lao nào đó, vì một cái gì cao đẹp.
Trong lãnh vực hi sinh này,
nói chung là hi sinh cho tha nhân,cho tổ quốc, người ta thấy thể hiện nhiều nơi
từng cá nhân,các chiến sĩ, đặc biệt nơi các bà mẹ trên khắp thế giới,trong những
truyện thật đời thường, qua các phương tiện thông tin, hoặc được các nhà thơ,
nhà văn tiêu biểu hóa vào các trang thơ, truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết… còn
lưu lại đến hôm nay, và mai sau cho hậu thế…
Xin được đan cử một số trường
hợp sau đây:
Nạn đói
1945 ở Việt Nam.
Người ta đã nói nhiều đến nạn
đói năm 1945 của Việt Nam, chết cả hai triệu người vì thiếu hạt gạo, thiếu củ
khoai, củ săn… Có biết bao đứa trẻ được cứu sống khi đang ngậm vú mẹ, hoặc mút
những giọt máu cuối cùng của mẹ, khi bà mẹ đã chết…
“Thảm thay em nhỏ mới sanh
Nào cháu có biết mẹ mình
chết đâu!
Lệ nhòa chan chứa đêm thâu
Ngậm vú mẹ chết, gục đầu
một bên” (ĐPL)
Trận động
đất ở Armeni thuộc Liên Bang Xô Viết.
Gần đây hơn, vào tháng 12 năm
1988 một trận động đất cường độ lên đến 6,8 độ Richter,đã xẩy ra tại Armeni
thuộc Liên Bang Xô Viết, cướp đi sinh mạng của 25.000 người. Sau trận động đất
nhiều ngày, người ta cứu được bà mẹ Petrosyan với hai đầu ngón tay bị xẻ nát,
cùng đứa con 4 tuổi. Bà kể lại: lương thực do bà cựa quạy vớ được trong bóng tối,
giữa đám gạch đổ nát là hũ mất chỉ còn một chút, rồi cũng hết… Người con của bà
nhiều lần kêu lên: mẹ ơi con khát! con khát lắm! Bà đã rờ rẫm được mảnh kính vỡ,
và rạch đầu ngón tay mình cho con mút…Lấy mấu mình nuôi con.
Sự hi sinh
của các chiến sĩ để bảo vệ tổ quốc
Người ta còn thấy sự hy sinh
đó đã thể hiện nơi hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ trong mỗi quốc gia để bảo vệ cho
nền độc lập của đất nước mình; bảo vệ tự do, nhân quyền của dân tộc và nhân loại.
Lịch sử của nhân loại và của mỗi dân tộc bao ngàn năm đã chứng minh nét cao cả,
hào hùng trong những sự hy sinh vì tổ quốc, vì quyền sống của con người…
Thúy Kiều
trong Đoạn Trường Tân Thanh vì chữ hiếu hi sinh mối tình của mình
Trong truyện Kiều của thi hào
Nguyễn Du (1766-1820) thì chính nàng Kiều đã tự nguyện hy sinh mối tình đầu đầy
mộng mơ với chàng thư sinh Kim Trọng để “bán mình chuộc cha”:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào
nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn
sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ
tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình
chuộc cha!”
Và Kiều đã ngậm ngùi thốt lên
“Đau lòng từ biệt sinh ly
Thân còn chẳng tiếc, tiếc
gì đến duyên”
Rồi Kiều phải cậy nhờ Thúy
Vân, em ruột mình thay Kiều nối tiếp mối duyên với Kim Trọng:
“Cậy em , em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi
sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương
tư
Keo loan chắp mối tơ thừa
mặc em…
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này
của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc, chắc
lòng chẳng quên!”
(Kiều, Nguyễn Du)
Chị Lạc
trong truyện ngắn Anh Phải Sống của Khái Hưng hi sinh chết để các con được sống
Truyện ngắn “Anh Phải Sống”
của nhà văn Khái Hưng, trong Tự Lực Văn Đàn của Việt Nam (1932-1942), ta được
chứng kiến cảnh hy sinh đến não lòng của chị Lạc vợ anh phó Thức, khi chị Lạc
nghĩ đến những đứa con nheo nhọc ở nhà, rồi đây ai sẽ nuôi chúng! Lạc đã âm thầm
buông tay, không bám vào vai chồng, để lặng lẽ chìm sâu xuống lòng sông Nhị Hà
vào một chiều mưa gió, để chồng đủ sức bơi vào bờ…
“Bỗng lạc run run khẽ nói:
“Thằng Bò! Cái Nhớn!, Cái Bé! Không! Anh Phải Sống! Thức bổng nhẹ hẳn đi. Cái
vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông
tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ” (Trích trong
truyện ngắn Anh Phải Sống của Khái Hưng)
Những mãu chuyện nêu trên,
cho ta thấy động lực Mẹ đã hi sinh là vì sự sống của con cái…
Động lực
hy sinhvì đức tin, vì chân lý thể hiện nơi các Thánh tử vì đạo.
Trước tiên ta cùng tìm hiểu
đức tin là gì? Theo tự điển Công Giáo của HĐGMVN thì:
“Đức tin là ơn Thiên Chúa
ban để tín hữu tự do gắn bó trọn vẹn với Thiên Chúa, đón nhận những chân lý mặc
khải trong Đức Giêsu Kitô. Đây là một trong ba nhân đúc đối thần (x. DV5)
Đức tin của tín hữu bắt
nguồn từ đức tin của Hội Thánh. Đức tin này có trước, sinh ra, nuôi dưỡng đức
tin của tín hữu, và đã được công bố trong kinh Tin Kính”.
Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội
Công Giáo, từ khi Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh nơi trần thế, với người đứng
đầu là Thánh Phêrô đến nay, đã có hàng vạn Kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã
sẵn sàng chịu tử vì đạo với muôn vàn hình phạt độc ác, tàn bạo và dã man, để bảo
về đức tin, bảo về chân lý…
Trong 12 vị Tông đồ theo Chúa
thì có tới 10 vị hi sinh chịu tử vì đao, chỉ có thánh Gioan chết lúc tuổi già,
và ông Giuda treo cổ chết…
Tính riêng ở Việt Nam, một
đất nước mà đạo Công Giáo mới được đón nhận vào năm 1533 thì đã có khoảng
300.000 Kitô hữu đã sẵn sàng chịu tử vì đạo, trong đó đã có 117 vị được phong
Thánh.
Đây quả là những gương hi
sinh cao cả đã sãn sàng bỏ mạng sống của mình để bảo vệ đức tin, bảo vệ chân lý.
Gương hi sinh đó còn sáng ngời đến mãi muôn đời sau; đạo Chúa ngày một lan rộng…
đúng như nhà văn Tertullianô đã nói:
“Máu các vị tử đạo là hạt
giống sinh nhiều giáo hữu”
Hi sinh,
tử đạo hàng ngày
Ngày nay, việc tử đạo có thể
diễn ra hàng ngày trong đời sống mỗi Kitô hữu, như phải hi sinh quyền lợi vật
chất, tiền bạc, bổng lộc, danh vọng, lạc thú để chấp nhận một cuộc sống bình
thường khó nghèo, nhưng yên lòng, bình an tâm hồn, đức tin không bị sứt mẻ…
Tôi nhớ mãi một câu truyện
thật ý nghĩa, gây ấn tượng do Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Giám mục giáo phận
Bắc Ninh kể cho anh chị em thuộc nhóm trợ tá từ Miền Nam ra giúp giáo phận Bắc
Ninh mở Khóa Ba Ngày thuộc Phong trào Cursillo.
Chuyện ba
cây cung
Ngài kể: “một buổi sáng
đẹp trời, ông chủ muốn vào rừng săn bắn. Trước khi đi, ông đến khu vực chứa cung
tên, rồi ngắm nghía mãi những cây cung, sau một lúc chọn lựa, ông cầm cây cung
nhỏ xinh sắn, ông trương cung lên, thì cây cung nhỏ thở than: ông ơi! Thân con
nhỏ bé, ông trương nhẹ nhẹ thôi nhé, không con lại đứt mất ông ạ! Ông chủ lặng
lẽ bỏ cây cung xuống vị trí ban đầu...
Ông lại ngắm nghía, hồi
lâu, có vẻ ưng ý, cây cung cònmới này, ông cầm lên, sau một vài động tác chuyên
nghiệp của người thợ săn, ông lại trương cung lên. Cây cung tỏ ra đau đớn than
vãn: ông ơi! Con mới được làm, còn non trẻ, xin ông nương nương cho con với,
không có lại gẫy nát mất ông ạ! Ông chủ lại lặng lẽ bỏ cây cung xuống!
Ông chủ có vẻ trầm ngâm,
đi đi lại lại, sau cùng ông cũng cầm cây cung thứ ba lên, với vẻ ưng ý, dù cây
cung này xem ra đã cũ rồi. Sau một vài động tác chuyên nghiệp, ông lại trương
cung lên và không quên liếc nhìn phản ứng của cây cung. Khác với hai cây cung
trước, cây cung thứ ba mỉn cười thưa với ông chủ. Thưa ông, phận con do ông làm
ra, ông muôn sử dụng thế nào tùy ý ông, miễn sao vừa ý ông. Ông chủ mỉn cười và
mang cây cung đó vào rừng…”
Tôi ngẫm nghĩ mãi trong nhiều
năm tháng: Thân xác, và trí tuệ của tôi là do Thiên Chúa ban tặng, tôi có bổn
phận phải nuôi dưỡng thân xác và trau dồi trí tuệ. Sống đức tin, tôi phải hi
sinh, phó thác đời tôi trong tay Chúa! Như lời nói của chiếc cung thứ 3…
Phần kết
Tôi xin muộn câu chuyện của
Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục giáo phận Xuân Lộc, Chủ tịch Ủy Ban Giáo
Dục Công Giáo, trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam để kết thúc bài viết này:
Câu truyện ba người đầy xe
hồ.
Trong một lần nói chuyện với
anh chị em tham dự Đại Hội Ultreya tại giáo phận Xuân Lộc, Đức cha đã kể một câu
chuyện:
“Một người ăn mặc chỉnh tề
đến một công trường đang hoạt động. Ông ta hỏi một người, mồ hôi ướt đẫm áo đang
đẩy một xe hồ: “chú ơi! Chú đang làm gì thế?”. Người đẩy xe hồ tỏ vẻ bực
tức, rồi trả lời: “Ông không thấy tôi làm vất vả đây à, còn hỏi gì?”.
Người mặc quần áo chỉnh tề cám ơn rồi bỏ đi.
Người ăn mặc chỉnh tề lại đến
một nơi đang xây dựng, và cũng hỏi một người thợ đang kéo một xe hồ câu hỏi như
trên. Người kéo xe cho xe ngừng lại và vui vẻ trả lời: “chúng tôi đang góp
phân xây dựng công trình phúc lợi cho xã hội”. Rồi người ăn mặc chỉnh tề cám
ơn, ông đến một nơi đang xây dựng công trình của tôn giáo, và cũng hỏi một người
đẩy xe hồ câu tương tự như hai người trên. Người đẩy xe, không những vui vẻ trả
lời, mà còn giải thích nhiều điều về công trình đang xây dựng.
Qua câu chuyện Ngài kể, tôi
suy nghĩ: Sống đức tin giữa cuộc đời là biết tìm được niềm vui trong mọi công
việc, mà mình đảm nhân, dù công việc đó có khó khăn, cực nhọc, ta sẽ tìm được sự
bình an và hạnh phúc ngay ở đời này!
Động lực chính cho những hi
sinh của người Công Giáo là biết sống tin tưởng, cậy trông phó thác, và yêu mến,
dù ta đang sống trong bất cứ hoàn cảnh xã hội nào,thì hạnh phúc biết bao!
Người Công Giáo mãi mãi tôn
kính sự Hi sinh vĩ đại, cao cả của Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người,
chịu chết, và đã sống lại để cứu chuộc cho muôn dân.
Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc
MInh