NÃO TRẠNG ‘VỨT BỎ' VÀ SỰ HUỶ HOẠI PHẨM GIÁ CỦA TÍNH DỤC
Lm. jos. Đồng Đăng
Dẫn nhập: Tình dục là một
phần quan trọng trong đời sống con người; nó không chỉ thuộc về lãnh
vực thể lý nhưng còn chi phối toàn bộ nhân vị. Tình dục trở nên dấu
chỉ tình yêu. Tuy nhiên, trong thực tế, tình dục bị giản lược thành
một nhu cầu hạ đẳng để khoả lấp tính ích kỷ và hành vi khoái lạc
của con người. Xã hội đầy rẫy những vấn nạn về tình dục. Vì thế,
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời nhận xét sát sườn sau đây như là
một hồi chuông cảnh tỉnh: “Trong
thời đại chúng ta, tình dục có nguy cơ bị nhiễm độc bởi não trạng
“sử dụng và vứt bỏ”. Thân xác của tha nhân thường bị thao túng và
xem như một đồ vật để sử dụng bao lâu nó còn đem lại thoả mãn, và
bị khinh dễ khi nó không còn hấp dẫn nữa.” Vậy,
đây là lúc chúng ta cần nhìn lại giá trị đích thực của tình dục, nhận
diện nguy cơ khiến cho tình dục bị nhiễm độc, đồng thời, tìm một
lối đi để bảo vệ phẩm giá của tình dục.
1. Giá trị của tình dục
Tình
dục vốn là món quà quý giá mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Từ
hư không, Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người có nam có nữ (St 1,27) và ban cho họ có bản năng tình
dục. Tình dục là một trong các yếu tố làm nên nét chính yếu của đời sống
mỗi cá nhân và là nét phân biệt người này với người khác. Chính từ tính dục, con
người tiếp nhận các đặc tính mà trên bình diện sinh học, tâm lý, và thiêng
liêng, làm thành con người là nam hay là nữ, và qua đó chúng điều kiện hóa sự
phát triển của người ấy hướng đến sự trưởng thành và sự hội nhập vào xã hội.
Nhờ tình dục, con người khám phá ra rằng, mình là một hữu thể tương
quan, luôn hướng về tha nhân chứ không phải chỉ để quy ngã. Nhờ bản
năng tình dục mà Ađam đã được hấp dẫn bởi Evà, khiến ông mừng rỡ
reo lên: “phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St 2,23). Chính nhờ việc sử dụng chức
năng tình dục một cách chân thật và ngay chính trong đời sống hôn nhân
mà người nam và người nữ được trở nên một với nhau, trao hiến cho
nhau và hiệp thông với nhau. Khi người nam và người nữ kết hợp với
nhau trong hôn nhân, họ phản ảnh rõ nét hơn hình ảnh Thiên Chúa. Trong
ý nghĩa này, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phalô II nói: “Con người giống hình ảnh Thiên Chúa hơn, không phải trong khoảnh
khắc cô đơn nhưng là trong thời điểm hiệp thông” (man becomes the
image of God, not so much in the moment of solitude as in the the moment of
communion).
Như
vậy, tình dục không phải là sự phiền phức nhưng là một ân ban của
Tạo Hoá, cần được trân trọng và sử dụng đúng mục đích của nó. Vậy
mà trong thực tế, vẻ đẹp của tình dục đang bị huỷ hoại do những
lối nhìn lệch lạc của xã hội, tiêu biểu là não trạng “sử dụng và
vứt bỏ”.
2.
Não trạng “sử dụng và vứt bỏ”: nguy cơ đe doạ đến tình dục và
nhân phẩm
Não
trạng vứt bỏ là mối đe doạ nghiêm trọng đến tình dục và nhân phẩm.
Do ảnh hưởng của lối sống theo chủ nghĩa thực dụng, phần đông con
người ngày nay chỉ cốt sống làm sao để thỏa mãn cái tôi ích kỷ của
mình mà lãng quên nhu cầu của tha nhân. Trong xu hướng đó, thuật ngữ tình
yêu đã bị lạm dụng rất nhiều, có khi đã bị giản lược thành tình
dục, một ‘mặt hàng tiêu thụ’. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, có ba từ diễn
tả ba cấp độ tình yêu là eros (nhục dục), philia (tình bằng hữu) và
agape (tình bác ái, trao hiến). Trong thực tế hiện nay, phần đông con
người chỉ nghiêng chiều về eros, “xem
nó chủ yếu như một trạng thái say đắm, một tình trạng lý trí bị
đè bẹp bởi một thứ “điên dại thần bí” lôi kéo con người khỏi cuộc
sống hạn hẹp phàm nhân của mình”.
Thái độ này được thấy rõ trong các giáo phái tôn thờ khả năng sinh
sản, chẳng hạn như tục mại dâm “linh thiêng” nở rộ trong đền thờ. Eros
vì thế, được thờ như một quyền năng thiêng liêng, đồng hàng với Thiên
Chúa. Hiện nay, trong xã hội, xuất hiện nhan nhãn những tệ nạn như
mại dâm, hiếp dâm, thủ dâm, ngoại tình và đồng tính luyến ái. Hình
ảnh khiêu dâm xuất hiện khắp các phương tiện thông tin đại chúng. Cái
trinh tiết của người phụ nữ vốn được xem là cái đáng giá “ngàn
vàng” thì trở thành món hàng để đổi chác, chung chạ. Việc “góp gạo
thổi cơm chung” trở thành “mốt tình yêu” thời thượng. Đó đây xuất
hiện những nhà chứa, ổ chứa mại dâm để làm thoả mãn thú tính cho
khách làng chơi, v.v.
Hậu
quả của lối sống phóng túng ấy chính là đánh mất tình bác ái - tình
yêu tự hiến, điều được chú trọng trong giáo lý Kitô giáo. Khi tính
cách thuộc về nhau và trao hiến cho nhau chuyển thành thống trị thì
sẽ phá vở mối liên hệ hiệp thông nhân vị. Phẩm giá con người trở nên
rẻ rúng. Khi con người coi tình dục như cách để thoát ly thực tế và
chối bỏ vẻ đẹp của sự kết hợp vợ chồng thì hệ quả kéo theo sẽ
là “tước đi phẩm giá của tặng phẩm
trao hiến vốn được biểu lộ nhờ thân xác của người đàn ông và người
đàn bà, và theo một nghĩa nào đó, nó cướp mất của con người tính
ngôi vị biến con người thành một đồ vật, đối tượng thoả mãn cho
người khác”.
Vây,
căn nguyên của vấn đề là gì? Khi tìm hiểu nguyên do của khuynh hướng
nói trên thì nhiều nhà nghiên cứu đã kết luận là do sự kinh nghiệm
lệch lạc về tự do, coi tự do như sự đồng tình mù quáng với những
mãnh lực của bản năng và với ý muốn thống trị của mỗi người. Vì thế,
một nền giáo dục lương tâm cho con người thời nay quả là rất cần
thiết.
3. Giáo dục lương tâm – một lối đi hiệu
quả để bảo vệ phẩm giá của tình dục
Để giúp con người biết bảo vệ phẩm giá của tính dục, họ cần
được đào tạo lương tâm. Dẫu biết rằng, lương tâm là tấm lòng ngay thẳng mà
Thiên Chúa đã đặt định nơi con người, giúp họ làm lành lánh dữ. Tuy nhiên,
lương tâm đó có nhiều nguy cơ bị phá hủy bới những mưu chước của ba thù: của
thế gian, xác thịt và ma quỷ. Cho nên, việc đào tạo lương tâm là một việc làm
rất cần thiết cho tất cả mọi người, hầu giúp họ có sự nhạy bén để nhận thức
được giá trị cao quý của mình.
Có người đặt câu hỏi: “Lương
tâm giá bao nhiêu tiền một cân?” Để trả lời câu hỏi này, ta hãy suy gẫm câu
chuyện sau đây. Câu chuyện kể về một anh lái xe, vì xe hỏng nên xuống lấy hai
hòn đá chặn hai bánh sau để sửa xe. Sửa xe xong, anh lên xe đi, để lại hai hòn
đá trên đường mà lương tâm không mảy may cắn rứt. Mặc dù được một cụ già nhắc
bảo, anh vẫn rồ máy cho xe chạy. Đến trạm kiểm soát, anh chợt nhận ra ví tiền
của mình, trong đó có giấy phép lái xe, đã bị mất. Khi trở lại chỗ sửa xe để
tìm, anh không thấy ví tiền đâu cả, nhưng thấy một mảnh giấy nhỏ yêu cầu anh
vác hòn đá lên đồi để tìm ví tiền anh đã đánh mất. Theo hướng chỉ dẫn trong tờ
giấy, anh lên tới đỉnh đồi, nơi có một nấm mộ mà trên đó anh thấy đặt ví tiền
và một tờ giấy. Giấy phép lái xe và tiền của anh đầy đủ không thiếu một đồng.
Còn tờ giấy thì được viết bằng những dòng như sau: "Cái ví này là do
tôi nhặt được… Đây là mộ của con trai tôi. Hai năm trước, vào một đêm, nó đi xe
máy về nhà, vấp phải hòn đá của một kẻ nào đó không có lương tâm bỏ ở trên
đường, bị ngã mà chết. Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai tôi là mong anh hiểu
rõ một đạo lý: "Lương tâm là vô
giá, làm người có thể để mất cái gì thì mất nhưng nhất thiết không được để mất
lương tâm".
Cần giáo dục làm sao để con người
nhận ra rằng, họ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, có lý trí, ý chí, tự
do, và lương tâm – được ví như là cung thánh, ở đó con người được thưa chuyện
với Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong lương tâm con người thật là
cao sâu: sâu hơn chiều sâu và cao hơn thượng đỉnh của lòng người. Thân xác con
người là hình ảnh Chúa Thánh Thần. Bởi vậy, khi để cho thân xác này trở thành
phương tiện mua vui, hầu thỏa mãn những xung năng tính dục (eros), con người
trở thành nô lệ cho những thú vui chóng qua. Và vô hình trung, con người đã
đánh mất căn tính của mình, trở thành một kẻ vong thân, xấu hổ, không xứng với
danh nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất”. Tóm lại, việc đào tạo lương tâm
là điều không thể thiếu, vì nó giúp con người có sự nhạy bén, luôn giữ tâm hồn
ngay thẳng để biết phân biệt điều lành điều dữ, biết tránh xa những nguy cơ làm
phương hại đến sự thánh thiêng của thân xác, của tình dục và của toàn thân thể
Chúa tặng ban.
Kết luận: Trên
đây là phần trình bày về giá trị tình dục, hệ quả của não trạng
vứt bỏ ảnh hưởng trên tình dục và nhân phẩm. Thiết tưởng, trào lưu
này sẽ còn bùng nổ với sức công phá nguy hại hơn nữa. Chỉ khi con
người trở về với tiếng gọi của lương tâm, trở về với hôn nhân chân chính,
trở về với giao ước bất khả phân ly thì mới có được điểm tựa vững
chắc giúp chống chọi với mọi phong ba bão táp của thời đại tục hoá
này. Hôn nhân Công giáo là cơ hội để trả lại phẩm giá cho tình dục,
là niềm hy vọng của xã hội này. Hơn nữa, để bảo vệ phẩm cách cao quý của
tính dục, cần có sự đào tạo lương tâm ngay thẳng, giúp con người nhận ra phẩm
giá linh thiêng của tính dục, từ đó biết cách bảo vệ mình và những người chung
quanh. Cuối cùng, lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II như là tiếng chuông cảnh
tỉnh chúng ta: “Các con hãy hỏi lương tâm của các con,
nơi đó, Thiên Chúa đã viết bộ luật về những giá trị chân chính, trên
nền tảng đó, các con có thể xây dựng cho mình thành những người nam
đích thực, những người nữ đích thực, trả lại hiện thực cho tiếng
nói lương tâm. Đó là đòi hỏi đầu tiên và căn bản nhất mà các con có
thể và phải mang lại cho thế giới này”. Thiết tưởng, lời đó luôn có
ý nghĩa cho mỗi chúng ta hôm nay.
X. Tuyên ngôn về một số vấn đề liên
quan đến đạo đức tính dục của Bộ Giáo Lý Đức Tin
(1975), s.1.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|