HÒA HỢP VỚI MÔI TRƯỜNG ĐỂ LOAN BÁO TIN MỪNG
Lm. Jos Đồng Đăng
Dẫn
nhập:
Đời sống con người được liên kết với ‘môi trường’
chung quanh, trong đó có môi trường tự nhiên. Một nền hoà bình đích
thực cho sự sống con người chính là trạng thái con người sống hoà
hợp với Thiên Chúa, với tha nhân, và với môi trường thiên nhiên.
Vì Giáo Hội là bí tích hiệp thông giữa con người trên thế giới, nên
Giáo Hội cũng là một thực tại luôn có sự hoà hợp với môi trường
thiên nhiên – nơi nhân loại đang sinh sống. Mối ưu tư của con người hôm
nay về môi trường cũng là mối ưu tư của Giáo Hội Chúa Kitô. Trong bài
viết này, người viết sẽ trình bày (1) mối tương quan giữa con người
với môi trường, (2) Giáo Hội hoà hợp với môi trường (3) thực trạng
môi trường tự nhiên, và (4) trách nhiệm của Giáo Hội trong việc bảo
vệ môi trường tự nhiên.
1.
Đời sống con người trong tương quan với môi trường
Con người không chỉ có mối tương giao
với Chúa và với tha nhân mà còn với môi trường chung quanh mình.
Những trang đầu của sách Sáng Thế đã cho chúng ta biết, Thiên Chúa
sáng tạo con người từ bụi đất (St 2,7) và đặt con người trong mối
hoà hợp với môi trường tự nhiên. Người giao cho con người trách vụ
quản lý trái đất và cộng tác với Chúa để hoàn hảo hoá trái đất.
Thiên nhiên trở nên như người bạn đối với con người và phục vụ con
người. Vì thế, con người được mời gọi sống hoà hợp với thiên nhiên.
Từ thời Cựu Ước, kinh nghiệm sống
động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong dòng lịch đã được thể
hiện nơi dân Ítraen. “Người Ítraen sống niềm tin ấy trong không gian và
thời gian của thế giới này, thế giới mà họ không hề coi là môi
trường thù nghịch hay một chỗ xấu xa mà người ta cần được giải
thoát, nhưng chính là ân huệ Chúa ban, là đất đai và kế hoạch Chúa
giao cho họ quản lý và làm việc với tinh thần trách nhiệm của một
con người.”
Người ta không thể diễn tả lịch sử cứu độ của dân Ítraen một cách
đầy đủ nếu bỏ qua các yếu tố trong thiên nhiên như manna, chim chút,
cột mây, cột lửa, và toàn thể môi trường sống.
Sang thời Tân Ước, mối hài hoà giữa
con người và thiên nhiên được hiện tại hoá nơi chính Đức Giêsu Kitô.
Chính Người đã làm người và mang
lấy những yếu tố của môi trường thiên nhiên như con người chúng ta.
Nói theo ngôn ngữ của tác giả thư gửi tín hữu Do Thái, “Người giống
chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15). Đức Giêsu đã mang lấy hình dạng con người; đã trở thành một phần
của trái đất này và nhìn thế giới với cặp mắt của nhân loại;
Người vẫn còn đang hiện diện sống động trong từng tạo vật.
Chính Người đã đến để nối kết trời với đất, vô hạn với hữu hạn, vĩnh
cửu với thời gian, thánh
thiêng với tội lỗi, ‘Môi Trường Thiên Chúa’
với ‘môi trường thiên nhiên’. Đức
Giêsu đã mang lấy những yếu tố do mình sáng tạo để yêu thương, để biến đổi
và qui tụ tất cả trong Trời Mới, Đất Mới khi Thiên Chúa đưa thời gian tới hồi
viên mãn.
Cuộc sống thường nhật của mỗi con
người đều gắn bó với thiên nhiên. Chúng ta sẽ tìm được căn tính của
mình khi trở về những ký ức tuổi thơ, khi ta uống từng ngụm nước trong dòng suối róc rách, khi ta rong chơi trong một khu rừng rậm, giữa thành phố đô hội hay khi ta dừng chân
bên bếp lửa hồng của một bác nông phu nào đó. Tất cả những ký ức
đó dệt nên đời ta. Nói cách khác, không ai lớn lên mà lại chẳng có
một mối liên hệ khăng khít với môi trường sống của mình.
Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta
cũng không tách rời môi trường thiên nhiên. Cội rễ của hữu thể nhân
linh của chúng ta không tồn tại một cách biệt lập với môi
trường sống này. Chúng ta đang bị chìm ngập trong muôn vẻ phong phú
của sự vật hữu hình tuôn đến qua muôn cửa ngõ của các quan năng nơi
thân xác chúng ta: thức ăn nuôi dưỡng thân xác, cảnh vật nuôi dưỡng thị
giác, âm thanh nuôi dưỡng con tim, v.v. Tất cả các kho tàng này xuất
phát từ bốn phương vũ trụ và không ngừng tương tác cùng tâm trí chúng
ta. Và, “Linh hồn con người, mặc
dù triết học tưởng là đã được dựng nên riêng biệt thế nào đi nữa,
thực ra vẫn không tách biệt khỏi hoàn vũ mà trong đó linh hồn, đã
được tạo dựng, ngay cả lúc khai sinh cũng như lúc trưởng thành. Nơi
linh hồn, Thiên Chúa yêu thương và cứu độ một phần nào toàn thể vũ
trụ, cái vũ trụ đã được linh hồn thu nhỏ lại một cách độc đáo và
đặc biệt.”
Nhận biết được mối hoà
hợp này, từ xưa đến nay, con người đã lặng lẽ thiết lập những liên hệ mật
thiết với môi trường. Có rất
nhiều nhà tư tưởng đã nghiên cứu môi trường, rút ra từ đó những nhận định về
các nguyên lý cho nhân sinh quan và vũ trụ quan. Ở Á Đông, có thuyết Ngũ
Hành gồm kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ và thuyết Âm Dương. Trong Giáo Hội, nhiều
vị thánh cũng đã gắn môi trường với đời sống thiêng liêng. Chẳng hạn, Thánh
Bênađô coi trái đất như một cuốn sách mở, để mọi người có thể đọc được sự khôn
ngoan của Thiên Chúa (De Diversis, 9,1). Từ cảm nghiệm
cá nhân, thánh nhân tiết lộ rằng chính ngài đã học được nhiều điều hay ho ở
các núi đồi, rừng rú (Epistoloe, 106,2). Thánh Tômasô tạ
ơn Thiên Chúa đã trao cho loài người hai cuốn sách quý: một là Kinh Thánh, hai
là thiên nhiên (Oeuvres, Éd. Vives, t.29). Thánh
Inhaxiô tìm Chúa, mến Chúa, phụng sự Chúa trong tất cả mọi loài, mọi sự (Ad amorem). Thánh Phanxicô Assisi, bổn mạng của môi
trường, luôn hát khen ca ngợi Thiên Chúa qua mọi tạo vật, từ anh mặt trời,
chị mặt trăng, muôn tinh tú, cho đến chim chóc, cá mú, cây cỏ, hoa màu (Oeuvres latines, Albin Michel, 1959).
Như vậy, cuộc sống con người luôn tồn
tại trong mối hoà hợp với môi trường tự nhiên. Không thể nói đến sự
tồn tại của con người nếu không có sự tồn tại của thiên nhiên. Cả
hai tạo nên mối liên hệ khăng khít và có thể nói là bất khả phân ly.
Và đi xa hơn nữa ta sẽ thấy, Giáo Hội – cộng đoàn được Đức Giêsu
thiết lập, cũng luôn có sự hoà hợp với môi trường tự nhiên.
2.
Giáo Hội hoà hợp với môi trường
Giáo Hội - Nhiệm Thể Chúa Kitô, cũng
có mối hoà hợp chặt chẽ với môi trường tự nhiên. Đức Giêsu luôn sống
hoà hợp với môi trường tự nhiên. Trong cuộc đời công khai, Đức Giêsu
đã tận dụng các yếu tố tự nhiên; Người không chỉ diễn giải về thiên
nhiên, nói về thiên nhiên cách thấu đáo bằng các hình ảnh và ‘dụ
ngôn’
từ các hình ảnh thiên nhiên mà Người còn làm chủ thiên nhiên nữa (x.
Mt 14,22-33). Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ nhìn thẳng vào sự vật,
mùa màng, và con người với thái độ tin tưởng của trẻ thơ luôn luôn
biết mình không bao giờ bị bỏ rơi (x. Lc 11,11-13). Người cũng khuyên các môn đệ hãy biết cách sử dụng
những tặng phẩm Chúa ban để đem lại sự chia sẻ và huynh đệ (x. Lc
16,9-13). Và cuối cùng, chính thiên nhiên cũng tham dự vào thảm kịch
Con Chúa bị khai trừ và vào chiến thắng của Đấng Phục Sinh (x. Mt
27,45.51; 28,2). Như vậy ta có thể khẳng định rằng, vì thiên nhiên đã
được tạo dựng trong Ngôi Lời, thì cũng chính do Ngôi Lời đã làm
người mà thiên nhiên được hoà giải với Thiên Chúa và được trả lại ơn
bình an (x. Cl 1,15-20).
Mối liên hệ giữa Giáo Hội với môi
trường tự nhiên được hình thành ngay trong cử hành phụng vụ, đặc
biệt là Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là Hy tế tưởng niệm Mầu Nhiệm
Vượt Qua của Đức Giêsu, là trung thành vâng theo lệnh truyền của Người: “Hãy
làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong cuộc cử hành đó, cộng đoàn tín hữu
dâng lời chúc tụng, tạ ơn Thiên Chúa cùng với bánh và rượu là những tặng phẩm
của thiên nhiên do Chúa ban tặng. Thánh lễ là cử hành phụng vụ có
đặc tính phổ quát, vừa công bố hành vi giao hoà của Thiên Chúa với
nhân loại, đồng thời kết nối đất với trời, đưa tình yêu cứu độ thấm
nhập toàn thể thụ tạo. Đây là cuộc vận hành của tất cả công trình sáng tạo
hướng tới đích điểm cuối cùng trong niềm hy vọng cánh chung, như được đưa vào
cõi thánh thiêng, được “biến hình”, được “Kitô hoá” và đến với nguồn mạch sự
sống một cách nhiệm mầu. Trên bàn thánh là tất cả tạo thành, muôn vật muôn loài
đồng thanh ngợi khen Thiên Chúa.
Cha Teilhard de Chardin (1881-1955) đã viết về Thánh Thể như là “Thánh Thi của Vũ
Trụ” với những lời lẽ rất đẹp và thi vị như sau:
“Con sẽ làm cho cả trái đất
này thành bàn thờ, và trên đó con xin dâng lên Ngài những lao công và khổ đau
của thế giới. Đàng kia, phía chân trời mênh mông, vừa chiếu toả ánh dương rạng
ngời đến tận mép viền phương đông. Một lần nữa, dưới tấm thảm chuyển động của
ánh lửa mặt trời, khuôn mặt sinh động của trái đất thức giấc và run rẩy, để lại
khởi đầu một vòng lao nhọc chứa đầy những sợ hãi. Trên đĩa thánh của con, ôi
lạy Chúa, con sẽ đặt mùa gặt được thu hoạch từ những nỗ lực mới này. Và trong
chén thánh, con sẽ rót vào tinh chất mọi trái cây của trái đất mà hôm nay sẽ
được nghiền ép. Đĩa thánh và chén thánh của con là những miền sâu thẳm của một
tâm hồn biết mở tung cho mọi sức mạnh, để trong giây lát sẽ vươn lên từ khắp
nơi trên trái đất, rồi hội tụ vào Thần Khí. Xin cho con một trời tưởng nhớ với
sự hiện diện diệu huyền của tất cả những ai giờ đây được vầng sáng chiếu soi
đánh thức vào ngày mới.”
Cảm nghiệm của Teilhard de Chardin, có thể
nói, tuy là một trực quan thâm sâu thần bí, nhưng thực ra lại khai mở một cách
hiểu mới, phù hợp với chiều hướng suy tư của thần học đương đại, cũng như những
thao thức của Giáo Hội trong nhiều văn kiện mới đây về mối tương quan giữa
Thánh Thể và tất cả tạo thành: vấn đề môi sinh trên thế giới.
Chính Thánh Gioan Phaolô II, trong Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia,
đã chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa của người qua việc cử hành Thánh Thể
“trong nhà nguyện trên triền núi, trên bờ hồ, trên bãi biển … trên bàn thờ dựng
ngay giữa sân vận động, trên công trường các thành phố”. Và như thế, người cảm
nhận mãnh liệt chiều kích vũ hoàn của Thánh Thể dưới ánh sáng của Mầu Nhiệm
Nhập Thể tuyệt đối: “Con Thiên Chúa đã làm người để hoàn lại toàn thể thụ tạo
cho Đấng đã kéo nó ra từ hư vô, trong một hành động chúc tụng tuyệt vời.” Trái đất tràn ngập sự sống với muôn vẻ
huy hoàng biểu đạt vinh quang Thiên Chúa. Bởi thế, niềm hy vọng Kitô giáo, như
lời Đức Gioan Phaolô II, thúc đẩy chúng ta hướng về “trời mới đất mới” (Kh
21,1), và “điều đó không làm suy yếu, mà còn kích thích tâm thức chúng ta về
trách nhiệm đối với trái đất” này.
Cũng theo lập trường đó, trong Tông Huấn
Sacramentum Caritatis, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nhấn mạnh
đến việc thánh hoá vũ trụ và thế giới, đồng thời ước mong “những
con người tạ ơn nhờ Thánh Thể là dân Kitô cần thiết phải có ý thức cử hành
Thánh Thể nhân danh toàn thể vũ trụ.” Vì Đức Kitô phục sinh là Ađam mới hiện
diện và ẩn dạng trong mọi sự, ở mọi cấp độ của thụ tạo, nên chúng ta có thể
nhận ra ý định cứu độ duy nhất của Thiên Chúa và hiểu được mối liên hệ thẳm sâu
giữa vũ trụ này với “vũ trụ mới”. Từ đó, câu chuyện về cuộc “Sáng Thế Chung”
được biết đến: vạn vật trong vũ trụ đều xuất phát từ một cội nguồn. Tất cả đều
sống, hiện hữu, chuyển động và tồn tại trong Thiên Chúa (x. Cv 17,28). Nhờ Bí
tích Thánh Thể, chúng ta chiêm ngắm thế giới tự nhiên như là “Nhiệm Thể của Đức
Kitô, hòa điệu cùng muôn thụ tạo, tiến dâng Chúa cả vũ trụ trong lịch sử tiến
hóa và xác tín rằng sự hoàn kết tương lai của toàn nhân loại không thể
tách rời sự thăng hoa biến đổi của tất cả tạo thành: “Này đây Ta đổi mới mọi
sự” (Kh 21,1-5; Cv 2,2).”
Cuộc đời của người Kitô hữu sống trong
lòng Giáo Hội, nhờ Nhiệm Tích Thánh Thể cũng trở thành một cuộc
tiếp xúc với Thiên Chúa vô hạn và khôn cùng. Cuộc sống ấy như là
một cuộc dìm ngập với Chúa trong làn nước của Vũ trụ và đời sống
ấy cũng chính là một “cuộc hiệp thông với Chúa qua Vũ trụ Nhiệm
tích của cuộc sống, cuộc sinh sống của tôi, cuộc sinh sống tôi đã
thụ nhận, đã trải qua và đã phó thác.”
Như vậy, những suy tư trên đây cho chúng ta
hiểu rằng, mối liên hệ giữa Giáo Hội và môi trường tự nhiên là rất
mật thiết. Trong cuộc cử hành phụng vụ, nhân danh Đức Kitô, Ngôi Lời
Sáng Tạo - Ngôi Lời Nhập Thể - Ngôi Lời Thánh Thể, chúng ta không chỉ dâng lên
trên bàn thờ trái đất, lao công và khổ đau của con người, nhưng hơn thế nữa, có
thể nói, vũ trụ là “Bàn Thờ” trên đó mọi lời Chúc Tụng và Tạ Ơn của muôn vàn
thụ tạo được dâng lên Thiên Chúa.
Vì thế, khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cùng với muôn loài thọ tạo
trên trời dưới đất cất lời ca tụng Chúa. Sự hiện hữu của con người
với môi trường tự nhiên là một hiện hữu không tách rời, nhưng tương
tác và tương thuộc lẫn nhau. Toàn bộ cuộc sống nhân loại được đan dệt bằng
tình liên đới giữa muôn loài muôn vật “hữu hình và vô hình” được tạo dựng, sinh
trưởng, tồn tại và tiến hóa trong cùng một Nguồn Mạch Sự Sống (Cl 1,17). Vì
thế, nhiệm vụ của chúng ta là mở rộng vòng tay yêu thương của chúng ta để có
thể ôm ấp mọi sinh vật, và toàn thể vũ trụ trong vẻ đẹp tuyệt vời của nó.
Người Kitô hữu có đức tin sâu đậm có thể
thánh hóa mình, không những bằng hoạt động mở “Nước Trời” mà cả bằng hoạt động
mở “Nước Đời” nữa. Và, đang khi chu toàn cả hai công việc, “người Kitô hữu
xem xã hội hiện tại như một nơi tha hương; họ thuộc về một xã hội mới là mục
đích của cuộc lữ hành trần thế, và là điều luôn được trông mong trong suốt cuộc
lữ hành này.”
Và trong khi hướng về cùng đích của cuộc đời, nơi quê hương đích thực,
Giáo Hội luôn dạy con cái mình không được xa lánh trần
thế, trái lại phải ra sức bảo vệ môi trường, xây dựng hoà bình, chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng, v,v. Đó chính là “thế hiến”, tức là đang
sắm sửa chất liệu cho Trời Mới Đất Mới mai sau.
Giáo Hội luôn dạy con
cái mình phải thao thức cùng niềm vui nỗi buồn của nhân loại. Vì
chưng, vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con
người ngày nay, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sâu và lo lắng của người
môn đệ Đức Kitô.
Và một trong những thao thức thường nhật mà Giáo Hội nói chung và
mỗi người Kitô hữu phải lưu tâm hiện nay là nạn ô nhiễm môi trường.
3.
Thực trạng môi trường hiện nay
Môi
trường sống của thế giới đang bị đe doạ, trở thành mối lo chung của
nhân loại. Các nguồn tài nguyên như đất đai, biển và những cánh rừng
vốn gắn liền với cuộc sống người dân đang kêu cứu: đất đai thì cằn
cỗi do hiện tượng hạn hán; nước biển thì ô nhiễm do sự xả thải bừa
bãi; rừng xanh rậm rạp thì biến thành đồi trọc do nạn chặt phá và
đốt nương làm rẫy tuỳ tiện. Lượng khí CO2 đang gia tăng nhanh chóng trong bầu khí quyển do con
người quá lạm dụng nguyên liệu hóa thạch để tạo ra năng lượng. Nạn cháy rừng
đã thải vào khí quyển một lượng lớn khí Carbon. Còn quá ít cây xanh
còn lại để giữ vai trò quang hợp, biến khí Carbon thành khí Oxy, do
đó, đất bị thiêu đốt vì hấp thụ nhiệt và không thể giữ nước nên
làm gia tăng tình trạng hạn hán. Ngoài ra, hiện tượng xói mòn bờ
biển, hiện tượng băng tan ngày càng nhanh và mực nước biển đang dâng
lên, đe doạ các cộng đồng dân cư miền duyên hải, v.v. Thật đau lòng
biết bao khi thấy hàng ngàn, hàng vạn người ngày hôm nay đang bị kẹt
trong cuộc khủng hoảng trầm trọng về môi trường: người thì suốt ngày
đêm phải ‘cửa đóng then cài’ để tránh bụi bặm từ các nhà máy sản
xuất; người thì nước mắt lưng tròng khi nhìn hàng tấn cá chết dọc
theo bờ biển do nạn ô nhiễm môi trường biển. “Có
thể nói rằng, biển đang kêu gào thảm thiết vì bị bức tử và mọi người, mọi vật
đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thảm họa này.”
Việc
huỷ hoại môi sinh là điều trái ngược với Kinh Thánh. Kinh Thánh Cựu
Ước dạy, Thiên Chúa dựng nên mọi loài mọi vật và giao cho con người
làm chủ (x. St 1,28). Tuy nhiên, Người không bảo con người cứ
sử dụng chúng một cách tuỳ tiện hay lạm dụng chúng, trái lại phải
biết chăm sóc và bảo tồn chúng. Chẳng hạn, Người ban huấn lệnh cho họ phải cho đất đai nghỉ ngơi một năm sau sáu năm canh tác (x. Lv 25,2-5). Thế mà,
con người cứ tự tung tự tác làm hại môi trường, mặc cho những hậu
quả khôn lường.
Vậy, căn nguyên của thảm hoạ môi trường
là gì?
Thưa, tất cả hệ tại ở sự ô nhiễm lương tâm con người, là sự xuống
cấp của nền đạo đức luân lý, khi con người chỉ nhắm mắt chạy theo
cái ‘có’ hơn cái ‘là’; khi con người cố làm sao để vơ cho đầy túi
tham của mình mà quên đi lợi ích của đồng loại. Một số quan chức,
với danh nghĩa là ‘đầy tớ của dân’ thì sống theo lối “sống chết mặc
bay, tiền thầy bỏ túi”. Họ là con đẻ của của chủ nghĩa cá nhân,
của bệnh vô cảm, và của sự gian dối, v.v. Môi trường thế giới có được phục hồi hay không hệ tại ở
ý thức của mỗi con người.
4. Trách nhiệm của Giáo Hội đối với môi trường tự nhiên
Bảo vệ
môi trường là một đòi hỏi cấp bách cho mỗi người trên trái đất này.
Chúng ta không thể “giả điếc làm ngơ” khi môi trường thiên nhiên bị
khủng hoảng, khi các công ty, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, các nhà
đầu tư, các tổ chức khoa học, kỹ thuật chỉ lo tìm kiếm lợi nhuận
trước mắt cho riêng mình để rồi khai thác tài nguyên thiên nhiên một
cách vô tội vạ, vô đạo đức. Cần ý thức rằng, “mọi hành vi gây nguy
hại đến mạng sống của mình hay của kẻ khác đều là hành vi tội lỗi
chống lại Thiên Chúa, đi ngược lại với trật tự luân lý, với quyền
được làm người và quyền được bảo vệ sức khoẻ.”
Vì thế, chúng ta cần cương quyết bảo vệ môi trường sống bằng nhiều
cách thế khác nhau. Hơn ai hết, Giáo Hội cần trở nên mẫu gương khi thi
hành sứ vụ ngôn sứ của mình. Giáo Hội phải luôn thao thức cùng niềm
vui nỗi buồn của nhân loại.
Trung thành với Giáo
huấn của mình, Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng bảo vệ môi trường,
thể hiện tinh thần hiệp thông với “người chị” thân thương là trái
đất. Ngay từ năm 1971, trong một Tông thư ban hành nhân dịp kỷ niệm 80
năm thông điệp “Tân Sự”, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã công nhận môi
trường là một vấn đề xã hội rộng lớn liên quan đến toàn thể gia
đình nhân loại, ngài cảnh báo: “Do khai thác thiên nhiên một cách khinh
suất, con người đẩy thiên nhiên đến nguy cơ bị phá huỷ và, đến lượt
mình, con người trở thành nạn nhân của sự phá huỷ đó.”
Đức Gioan Phaolô II đã khuyến cáo mọi người Á Châu
rằng, cần phải quan tâm thật nhiều đến môi trường, ngài nói: “Nếu
chúng ta chỉ chú trọng đến việc phát triển kinh tế và kỹ thuật mà
không lưu tâm đến sự cân bằng của hệ sinh thái, trái đất chúng ta
chắc chắn sẽ đứng trước nguy cơ bị phá hoại môi trường cách trầm
trọng, kéo theo những hậu quả tai hại, ảnh hưởng đến sự tồn vong
của nhân loại.”
Đối
với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, thiên nhiên được kể như là quà tặng
Thiên Chúa ban cho con người. Thiên nhiên giúp cho chúng ta khám phá về
Thiên Chúa. Trong Thông điệp Tình Yêu Trong Sự Thật (Caritas in
Veritate), Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh:
“Thiên
nhiên xuất hiện trước con người và được Thiên Chúa ban tặng cho chúng
ta làm không gian sống. Thiên nhiên nói cho chúng ta về Đấng Tạo Hoá
(x. Rm 1,20) cũng như về tình Người yêu thương nhân loại (…). Bởi thế,
thiên nhiên cũng là một “ơn gọi”. Thiên nhiên được đặt dưới quyền sử
dụng của chúng ta không phải như “một đống phế thải bừa bãi”, mà là
một tặng vật của Tạo Hoá, Đấng đã quy định cho chúng những cơ cấu
nội tại để con người có thể khám phá ra những định hướng phải tuân
thủ nhằm “bảo vệ và canh tác” chúng.”
Trong
sứ điệp ngày hoà bình thế giới 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI
viết: “Để bảo vệ môi sinh, để bảo tồn các nguồn tài nguyên và khí
hậu, một đàng phải hành động trong sự tôn trọng các quy luật được
xác định rõ ràng về mặt pháp lý kinh tế, mặt khác, cần để ý đến
tình liên đới phải có đối với những người cư ngụ tại các vùng
nghèo hơn trên trái đất và các thế hệ tương lai.”
Luân lý
Giáo Hội Công Giáo dạy phải luôn tôn trọng sự sống tự nhiên và siêu
nhiên của mình cũng như của người khác, do đó, cấm mọi hình thức xâm
phạm đến sự sống con người, trong đó có việc làm tổn hại đến môi
trường chung, là cái nôi sự sống của mọi người. Khi tôn trọng thiên
nhiên, chăm lo bảo vệ cho sự trong lành của thiên nhiên đó cũng chính
là khi chúng ta chăm lo sức khoẻ cho anh em mình. Tuy nhiên, con người
dường như quên lãng mối tương quan khăng khít giữa môi trường thiên nhiên
và chính mình. Họ không biết rằng, môi trường và con người như “một
cặp song sinh”. Vì vậy, con người chỉ biết huỷ hoại thiên nhiên để
thoả mãn lòng ích kỷ của mình. Xét cho cùng, của cải vật chất mà
Chúa tạo dựng là cho mọi người chứ không phải chỉ dành cho một nhóm
người hay cho một thế hệ nào. Hơn nữa, con người có tình liên đới với
nhau và với thế hệ tương lai. Mọi người phải biết sống và bảo tồn
thiên nhiên tươi đẹp cho thế hệ tương lai. Theo đó, mọi hoạt động kinh
tế tác động đến môi trường đều có tác động đến các thế hệ tương
lai.
Khi dấn
thân vào việc bảo vệ môi trường, chúng ta sẽ có tác động đến thế
hệ tương lai. Khi bảo vệ môi trường là khi chúng ta bảo vệ giới luật
yêu thương. Khi bảo vệ môi trường là khi chúng ta đang góp phần ‘phô
diễn’ vẻ đẹp của thiên nhiên, của công trình tạo dựng của Thiên Chúa,
nhờ đó giúp chúng ta nhìn nhận tình yêu của Đấng Tạo Hoá, Tình Yêu
đã “chuyển động mặt trời và các vì sao khác.”
Vì vậy,
việc bảo vệ môi trường là nhiệm vụ cấp bách của Giáo Hội Chúa
Kitô. Chừng nào chúng ta thi hành việc bảo vệ môi trường tốt thì
chúng ta thực sự là môn đệ của Đức Kitô. Mỗi một người trong Giáo
Hội cũng phải kiên quyết yêu cầu các nhà chức trách có thẩm quyền
bảo vệ môi trường, bảo vệ đời sống của mình và của anh em. Trong ý
hướng đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tha thiết kêu gọi:
“Chúng ta không thể dung thứ bất cứ thái độ vô
cảm và vô trách nhiệm nào đối với môi trường. Đồng thời, chúng ta có quyền đòi
hỏi người khác, trong lúc tìm cách đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại,
không được tác hại đến các thế hệ tương lai. Chúng ta có quyền yêu cầu các nhà
hữu trách phải tạo lập một hệ thống pháp lý chặt chẽ và hữu hiệu để bảo vệ môi
sinh. Không cho phép những ai lạm dụng quyền lực và dựa vào mô hình kinh tế -
kỹ thuật để phá hoại đất nước, sự tự do cũng như công bằng xã hội.
Là
người Kitô hữu, chúng ta cần nhận thức rằng, chúng ta không thể yêu
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo chúng ta, mà không yêu những gì Người đã dựng nên cho
chúng ta. Và chúng ta không thể chăm sóc thiên nhiên
“nếu cõi lòng chúng ta thiếu sự nhân hậu, lòng thương xót và quan tâm đến người
đồng loại của chúng ta.” Chúng ta vừa được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong công trình
sáng tạo, vừa được mời gọi cộng tác với Người trong việc biến đổi bản thân mình
cũng như biến đổi thế giới thụ tạo sao cho các hình thức môi trường trong thế
giới thụ tạo ngày càng sạch đẹp hơn, hầu tất cả mọi người trong gia đình nhân
loại sống xứng đáng hơn với phẩm giá là con cái của Thiên Chúa, là bạn của Đức
Giêsu và là em của Người (Ga 1,12; Ga 15,15; Cl 1,15.18).
Giáo Hội không phải là một thực tại
“xuất thế” nhưng luôn luôn “nhập thế” để cùng chung chia những niềm vui
và nỗi buồn cùng với kiếp người. Giáo huấn của Giáo Hội cũng không
chống lại tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của thời đại,
nhưng mời gọi con người tìm một nếp sống giản dị, thanh bình, thân
thiện với môi trường. Chính vì lòng ích kỷ mà con người khai thác
bừa bãi môi trường và ảnh hưởng đến trái đất, đến anh em đồng loại.
Các sa mạc bên ngoài ngày càng nhiều, vì những sa mạc bên
trong đã quá bao la. Cuộc khủng hoảng sinh thái, vì thế, đòi hỏi sự ‘hoán cải
nội tâm’ sâu sắc, qua đó, người tín hữu làm cho hoa trái của cuộc gặp gỡ giữa
họ với Đức Giêsu trở nên chứng tá trong mối tương quan của họ với thế giới xung
quanh. Vậy,
con đường hoán cải đó là gì?
Trong Thông điệp Laudato Sí, Đức Giáo Hoàng Phanxicô
nhắc đến bốn thái độ căn bản trong cuộc hoán cải sinh thái. Trước hết là lòng
biết ơn và sự cho không, nhận biết rằng thế giới là quà tặng yêu thương của
Thiên Chúa, và chúng ta được mời gọi âm thầm noi theo lòng quảng đại của Ngài
trong sự hy sinh tự hiến và trong những việc lành phúc đức. Thứ hai là sự
hiệp thông với toàn thể tạo thành: Sự hoán cải này cũng bao hàm một nhận thức
trìu mến về sự liên kết của chúng ta với toàn thể thụ tạo, cùng dự phần trong
sự hiệp thông hoàn vũ tuyệt vời. Là tín hữu, chúng ta không nhìn thế giới từ
bên ngoài mà từ bên trong, ý thức về các mối dây Chúa Cha đã liên kết chúng ta
với tất cả mọi hữu thể. Thứ ba là phát
triển khả năng bản thân; đó là việc phát triển cá nhân và những khả năng Thiên
Chúa ban tặng. Chúng ta đừng hiểu sự ưu việt của chúng ta là một lý do để vinh
danh cá nhân hay thống trị một cách vô trách nhiệm, nhưng đó là một trách nhiệm
nghiêm túc xuất phát từ niềm tin của chúng ta. Thứ bốn là góp phần giải
quyết các vấn đề sinh thái. Sự hoán cải sinh thái có thể thúc đẩy chúng ta sáng
tạo và nhiệt thành hơn trong việc giải quyết các vấn đề của thế giới và trong
việc hiến dâng chính bản thân chúng ta lên Thiên Chúa “như một của lễ sống
động, thánh thiện và đẹp lòng Người” (Rm 12,1).”
Kết luận: Trên đây là
phần trình bày về mối tương quan hiệp thông giữa con người và môi trường, Giáo
Hội với môi trường, thực trạng môi trường và trách nhiệm con người với môi
trường, trong đó một sự hoán cải môi sinh là cần thiết. Như mọi cuộc hoán cải,
cuộc hoán cải sinh thái gồm ba bước: nhận biết những sai lỗi, sám hối chân thành, và khao khát thay đổi. Hoán cải
không chỉ về những hành động tàn phá môi trường nhưng là một cuộc hoán cải
toàn diện: về những sai lầm, những tội lỗi, những thiếu sót và cả những thất
bại của chúng ta trong việc chăm sóc ngôi nhà chung. Giáo Hội kêu mời
chúng ta xây dựng một nếp sống lành mạnh với
trái đất, xem trái đất là món quà Chúa ban chứ không phải là vật
sở hữu của mình. Con người phải là người quản lý chứ không phải là
chủ sở hữu. Đồng thời, Giáo Hội cũng mời gọi con người cần biết
liên đới với những người nghèo khổ trong việc sử dụng nguồn tài
nguyên chung của trái đất. Có như vậy, chúng ta mới có thể sống hiệp
thông đúng nghĩa với Thiên Chúa là nguồn của mọi sự hiệp thông trong
tình bác ái. Và chỉ khi chúng ta sống chiều kích hiệp thông một
cách đúng đắn với Chúa, với bản thân, với tha nhân và với môi trường
sống, đời sống chúng ta mới có sức lan toả hương vị của Tin Mừng.
Đó cũng chính là sứ vụ loan báo Tin mừng mà Thiên Chúa đã uỷ thác
cho Giáo Hội và cho mỗi người chúng ta.
Theo cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ – EPA
(Environmental Protection Agency): “môi trường là tổng thể những điều
kiện bên ngoài tác động đến cuộc sống, sự phát triển và sự tồn
tại của một sinh thể.”
X. “Bài nói chuyện của ĐGM Phêrô Nguyễn Văn
Viên với các bạn trẻ tại Đại hội Giới trẻ giáo tỉnh Hà Nội lần thứ XIV”, http://daichungvienvinhthanh.com. Truy cập ngày
25/02/2017.
Teilhard de Chardin, Hymn of the Universe (New York/ London: Collins, 1965), tr.
19.
Ecclesia de
Eucharistia, s. 20. Xem thêm Gaudium
et Spes, s. 39.
Sacramentum
Caritatis, s. 92.
Giáo Hoàng Bê-nê-díc-tô XVI, Thông Điệp Spe Salvi, s. 4.
X. Gaudium et Spes, s. 1.
ĐGM. Nguyễn Thái Hợp, “Thư Chung Về Thảm Họa Ô Nhiễm Môi Trường Biển
Miền Trung”, giaophanvinh.net. Truy cập ngày 6/3/2017.
X. ĐGH. Phanxicô, Thông Điệp Laudato Sí, s. 53,59.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|