GIÊ-RÊ-MI-A, MẪU GƯƠNG CHO NGƯỜI NGÔN SỨ
(Suy từ đoạn sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, chương
20, từ câu 7 đến câu 18)
Dẫn nhập:
Người ta thường nói, đời là một cuộc vật lộn, một trường tranh đấu.
Cuộc sống luôn đầy rẫy những cam go thử thách. Vì thế, con người luôn
phải nỗ lực băng mình lên, có khi phải « trầy vi tróc
vảy » mới có thể tìm cho mình được một chọn lựa đúng
đắn, một lối sống thích hợp cho mình. Ơn gọi làm ngôn sứ của
Giê-rê-mi-a là một trường hợp điển hình như thế. Để đáp lại lời mời
gọi của Chúa, để làm « phát ngôn viên » cho
Ngài, Giê-rê-mi-a đã phải đối diện với bao nỗi truân chuyên, giằng co
của thế sự thăng trầm: phải sống độc thân theo lời mời gọi đầy hấp lực
của Chúa mà lòng như rối tơ vò; phải chịu trăm ngàn điều trái
nghịch và sỉ nhục, ngay trong đám bà con thân thuộc của mình. Tuy
nhiên, vượt trên tất cả, bàn tay Chúa luôn ở với ông. Qua trích đoạn
sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, chương 20 từ câu 7 đến câu 18, chúng ta có thể
rút ra những suy nghĩ gì về thân phận của người ngôn sứ nói chung, nhất là
trong bối cảnh xã hội hôm nay.
1. Sự huyền nhiệm của ơn gọi
ngôn sứ: Điều
đầu tiên đánh động chúng ta đó chính là sự nhiệm mầu của ơn gọi
làm ngôn sứ của Chúa. Thật vậy, ngôn sứ là người được Chúa chọn để
thi hành sứ vụ của Người. Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước để mời
gọi con người dấn bước vào hành trình mục tử. Đối tượng chọn gọi có
thể xuất thân từ bất kỳ hoàn cảnh nào. Người thì ở chốn phồn hoa
đô thị, kẻ thì sớm hôm chài lưới bên sông, người khác lại đang cuốc
cày mưa nắng ngoài đồng… Còn Giê-rê-mi-a lại là một thanh niên trai
trẻ, xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt vào thế kỷ thứ
bảy. Ông vốn là người sống hiền lành, trầm tĩnh và có phần nhút
nhát, trong khi sứ vụ ngôn sứ đòi hỏi phải có sự mạnh mẽ và hoạt
bát. Vì thế, thoạt tiên ông đã tìm cách từ chối mà rằng: « Lạy
Chúa, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói »
(Gr1,6). Thế mà ý Chúa nhiệm mầu, với ý định khôn dò khôn thấu,
Ngài đã «quyến rũ » chàng trai trẻ, đã ban
cho chàng trai trẻ sự can đảm và bảo chứng của Ngài: «Đừng
nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi» (Gr1,7).
Và cuối cùng, Giê-rê-mi-a đành để Chúa «quyến rũ ».
Như vậy, ơn gọi trước hết xuất phát từ Thiên Chúa, chính Ngài khởi
xướng và chọn gọi, và khi đã chọn gọi, Ngài ban đủ ơn cần thiết để
họ thi hành sứ vụ của Ngài. Chính đây là điểm tựa để Giê-rê-mi-a chu
toàn sứ vụ của ngài giữa bao thế sự thăng trầm.
2. Đời sống của Giê-rê-mi-a
nên lời ngôn sứ: Đoạn trích trên đây cho ta thấy, ơn
gọi làm ngôn sứ luôn là một ơn gọi đầy cam go thử thách. Bước vào
hành trình ngôn sứ, Giê-rê-mi-a có vai trò làm trung gian giữa Thiên
Chúa với dân Ngài. Thời bấy giờ, dân tộc Ít-ra-en đang loạn lạc. Khi
được mục kích thời tàn của Giu-đa và sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem năm
587 tcn, Giê-rê-mi-a đau lòng trước nỗi đau của dân tộc, ngậm ngùi cho
dân tộc đang bị tan nát vì ách đô hộ, dân chúng phải lưu đày khổ ải.
Trước tình cảnh đầy nghiệt ngã đó, Giê-rê-mi-a đã giải thích cho họ
biết rằng những đau khổ mà họ phải chịu chính là hệ luỵ của lòng
bất trung vào Chúa. Ông cực lực phản đối lối sống vô luân, phản
trắc, dâm dật của dân Ít-ra-en. Họ đã phản bội Chúa mà đi thờ các
thần ngoại bang, tựa như những
người vợ dâm bôn đã không chung thuỷ với Chúa nhưng lại lang chạ, đĩ
điếm với những gã đàn ông khác. Bởi vậy, Thiên Chúa đã nổi trận lôi
đình giáng phạt họ. Ông hằng tha thiết mời gọi họ mau trở về với
Chúa và hoà giải với Ngài. Ông cũng cực lực lên án những hành vi
bất chính của vua Giơ-hô-gia-kim (609-598): «Khốn thay kẻ xây
nhà xây cửa mà không đếm xỉa tới lẽ công bình. Khốn thay kẻ xây lầu
son gác tía mà chẳng màng chi đến điều chính trực. Khốn thay kẻ bắt
anh em mình làm lụng vất vả mà không tính công sá, không trả thù lao…
Nó sẽ được chôn cất như một con lừa» (X. Gr 22,13-19). Sở dĩ có những lời chỉ trích cay
nghiệt như thế là vì nhà vua bắt dân đen phải đóng sưu cao thuế nặng
để triều cống cho ngoại bang là vua Ai cập. Ngoài ra, Giê-rê-mi-a còn
dùng rất nhiều lời tuyên sấm khác để cảnh tỉnh người Ít-ra-en từ
vua đến dân nhưng xem ra những lời sấm của ông «chẳng nặng
tày mây khói», chỉ tựa «hạt cát dính bàn cân »
trước sự điếc lác của đám dân khốn nạn. Thay vì mau mắn nghe lời và
đáp trả, đám dân này lại xem lời rao giảng của Giê-rê-mi-a như trò đùa
và mặc sức cười nhạo. Những thánh giá mà ông phải hứng chịu càng
nặng nề chua chát gấp bội khi những bia miệng ấy lại đến từ đám bà
con thân thuộc của ông. Như vậy, sứ vụ ngôn sứ rõ ràng không phải là
một con đường tiến thân theo kiểu
«vinh thân phì gia» nhưng là một chọn lựa để dấn thân theo bước chân của Người
Tôi Tớ Đau Khổ – là Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đầu đội vòng gai, chịu nạn
chịu chết vì nhân trần. Tuy nhiên, trước một sứ vụ dù cao cả nhưng
muôn trùng khó khăn đó, người ngôn sứ của Chúa không thể nào không
chất chứa những tâm trạng sầu não, có khi thất vọng chán chường và
thoái lui.
Trước
những lời nhạo cười chua chát của dân Ít-ra-en, trước lòng chai dạ
đá của đám dân tội lỗi này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã phân trần cùng
Chúa: «Suốt ngày con trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ
nhạo báng con » (Gr 20,7). Đã nhiều lúc ông định rút lui
và than rằng: "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà
nói nữa » (Gr 20,9). Trước mắt ông chỉ là vực sâu hun hút của hư vô
và thất vọng ê chề. Đây là một tâm trạng rất đỗi tự nhiên của con
người trước khó khăn của cuộc sống. Và giá như Giê-rê-mi-a có thoái
lui thì người đời cũng dễ thông cảm nếu như không muốn nói là đồng
cảm. Tuy nhiên, chiều kích ơn gọi quả rất huyền nhiệm, khác hẳn với
lô gích của người đời. Chính tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đã
can thiệp và xoay chuyển cuộc đời ông như chính ông đã nói: «Lời
Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt »
(Gr 20,9). Và sự thúc bách đó như một hấp lực khiến vị ngôn sứ không
thể cưỡng lại được. Ông đã đứng phắt dậy tiếp tục cuộc hành trình, mặc
cho mọi rào cản vẫn đang giăng lối. Hình ảnh đắc địa này giúp chúng
ta liên tưởng đến những lời trần tình đầy khắc khoải của Thánh
Augustinô khi ông không thể cất cánh bay khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, vì
thế tâm hồn chúng con sẽ không được ngơi nghỉ cho tới khi nó tìm được sự nghỉ
ngơi nơi Ngài”. Hay
như Phao-lô, vị Tông đồ dân ngoại cũng cảm nhận được sự thúc bánh
mạnh mẽ của Chúa để đi rao giảng Tin mừng, và cuối cùng ông đã dốc
tất cả nhiệt huyết tông đồ vì sự thúc bách đó. Và có lẽ, hình
ảnh Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng giúp soi sáng cho chúng ta hiểu
chi tiết đặc biệt này của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Chúa Giê-su đã phải
chảy mồ hôi máu cũng chỉ vì sự giằng co giữa hai thái cực của tâm
trạng: một để không uống chén đắng của hành trình thập giá và một
để vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Và cuối cùng, Ngài một mực
vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Tâm trạng của Giê-rê-mia, của Chúa Giêsu, của Thánh
Phaolo hay của Thánh Augustino như là một sự giằng co đau đớn, một sự
căng thẳng giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa tự do chọn lựa của con
người và lời giục giã hay ân sủng nhiệm mầu của Thiên Chúa. Dù sự
giằng co ấy quyết liệt đến cỡ nào thì cuối cùng ân sủng Chúa vẫn
thắng. Như vậy, ân huệ siêu nhiên không phải là rào cản nhưng là sự
kiện toàn ý chí tự nhiên nơi Giê-rê-mi-a và giúp ông thi hành sứ vụ
ngôn sứ đầy nhiệm mầu. Nói cách khác, Giê-rê-mi-a đã tìm được tự do
đích thực đó là « khả năng đón nhận ân sủng và sử
dụng « tự do lựa chọn » để phụng sự Đức
Ki-tô. Con người được sáng tạo tự do và trong tự do, con người phải
quy hướng về Chúa.»
3. Lời
mời gọi cho người mục tử hôm nay: Chân
dung ngôn sứ Giê-rê-mia giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người mục tử
trong xã hội hôm nay. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy nhiễu
nhương. Đó đây nhan nhãn những chuyện thương tâm và vô luân như chiến
tranh loạn lạc, huynh đệ tương tàn, mại dâm, bóc lột, tham ô, hối lộ,…
Những việc làm tội lỗi đó chẳng khác nào những tội lỗi mà dân
Ít-ra-en ngày xưa đã trót phạm. Nếu như ngày xưa dân Ít-ra-en bỏ Chúa
mà đi thờ các thần ngoại bang thì nay nhiều người cũng đang nhắm mắt
chạy theo tiền tài, danh vọng và quyền lực. Vết xe đổ của vua chúa
Ít-ra-en vẫn đang còn nhan nhãn trong xã hội hôm nay: đó là cảnh quan
quyền ăn trên ngồi trước, ngồi mát ăn bát vàng và mặc sức hoành hành,
cưỡi đầu cưỡi cổ dân đen bằng sưu cao thuế nặng … Ngay cả trong Giáo
hội, « khói Satan » cũng lẻn vào dưới
nhiều hình thức khác nhau, làm tổn thương hình ảnh Chúa Ki-tô nơi
Nhiệm Thể của Người.
Vậy, trước hiện trạng đó, người ngôn sứ chân
chính của Chúa Ki-tô phải làm gì ?
Phải chăng họ chỉ biết im hơi lặng tiếng, an nhiên
tự tại, chỉ ngước nhìn những « vết thương »
của Chúa Giê-su nơi những người đau khổ, bệnh tật, thấp cổ bé miệng…
mà không một lời biện hộ hay bênh vực, như thế chẳng khác nào một
căn bệnh trầm kha mà Đức Thánh Cha Phanxico vẫn gọi là bệnh « toàn
cầu hoá dửng dưng.»
Phải chăng người ngôn sứ của Chúa lại không đồng
cảm trước những cảnh cướp bóc, bạo tàn, nạn phân biệt chủng tộc hay
đàn áp dân đen một cách nhẫn tâm của tầng lớp thống trị lên những
người dân thấp cổ bé miệng?
Phải chăng người ngôn sứ trong thời đại hôm nay lại
yếm thế, muốn được vô tai vắng tiếng mà lờ đi những bổn phận đang
sờ sờ trước mắt ?
Không. Người ngôn sứ phải là người như Giê-rê-mi-a,
dám đương đầu với mọi cảnh bất công, dám chạm đến vết thương của
Chúa Giêsu nơi những người đau khổ bất hạnh, dám vượt qua nỗi nhục
nhã của bia miệng thế gian để trở nên «miệng của Chúa ».
Nếu làm được như thế thì người ngôn sứ sẽ được Chúa sủng ái và
chúc phúc chứ không bị Ngài nguyền rủa là « lũ chó câm, không biết sủa».
Những lời hiệu triệu sau đây của Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng thật
đáng cho chúng ta suy nghĩ: « nhiều khi các vị lãnh đạo không biết lo xa, sợ không
được lòng người đời, nên ngại không dám thẳng thắn nói ra sự thật. Họ
không nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên theo lời Đấng là sự thật, cho đúng với
nhiệm vụ mục tử, mà chỉ chăn dắt như người làm thuê, vì khi ẩn mình làm thinh
thì chẳng khác gì họ xa chạy cao bay khi chó sói đến».
Kết luận: Tóm
lại, ơn gọi làm ngôn sứ luôn mang chiều kích siêu nhiên, huyền nhiệm.
Với khả năng tự nhiên của con người, sứ vụ ấy tưởng không thể cam nổi
nhưng với ân sủng của Chúa, mọi sự đều có thể. Sứ vụ ấy luôn đầy rẫy
những thập giá hay nói cách khác, thập giá như một thành tố làm nên
ơn gọi ngôn sứ vì chính Chúa Giêsu đã nói: « tôi
tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi »
(Ga 13,16). Tuy nhiên, người ngôn sứ luôn được Chúa an ủi vỗ về: « Ơn
của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối» (2 Cr 12, 9). Cuối cùng, điều tối quan trọng là người
ngôn sứ phải biết rằng mình chỉ là đầy tớ vô dụng, muốn trở nên
hình ảnh và khí cụ của tình yêu thì cần chạy đến và « uống
nơi nguồn mạch đầu tiên, nguyên thủy, nơi Đức Giêsu Kitô, từ cạnh sườn được
khai mở của Người, tình yêu của Thiên Chúa luôn tuôn trào» (x. Ga
19,34). Nếu được như thế thì họ cũng sẽ là những « Giê-rê-mia mới » cho xã hội hôm nay.
Tài
Liệu Tham Khảo
1. Lm. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao,
O.P. Sách Ngôn sứ, 2006.
2. Nguyễn Trọng Viễn. Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Thời
Trung Cổ. Gò Vấp: Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, 1996.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|