NGÀI CỠI LỪA VÀO THÀNH - CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Có thể nói, trong suốt 3 năm miệt mài, vất vả rao truyền lời chân lý, chữa lành bao kẻ tật nguyền, thực hiện bao phép lạ vỹ đại, hôm nay là ngày Chúa Giêsu được vinh hiển nhất, được tôn kính trọng vọng nhất. Dân chúng đứng chật hai vệ đường, người người vui mừng reo hò. Họ tung hô vạn tuế và không ngừng ca tụng: “Hoan hô con Vua Ðavít. Chúc tụng Ðấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Lòng sùng mộ và yêu kính của dân chúng bấy giờ đã khiến họ hành động một cách hết sức đặc biệt. Họ cởi áo ngoài trải đường như một tấm thảm kéo dài trên đường Ngài đi qua. Và họ cầm trên tay ngành vạn tuế để vẫy chào Ngài khi Ngài đi qua chỗ họ. Thánh Kinh kể lại, số người theo tung hô Ngài mỗi lúc một thêm đông, đến độ khiến các Pharisiêu phải ghen tị. Quan sát đám rước hôm đó, có một chi tiết có thể khiến chúng ta phải dừng lại để suy nghĩ. Ðó là Chúa Giêsu không cỡi trên voi, trên ngựa, hoặc không ngồi trên kiệu mà tham dự cuộc khải hoàn này, nhưng Ngài lại ngồi trên lưng một con lừa con. Thánh Mátthêu ghi: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các anh hãy mở dây và dẫn về đây cho thầy” (Mt 21:2). Làm thế, Ngài đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Hãy nói với thiếu nữ Sion rằng, này vua các ngươi đang ngự đến, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, là con lừa mẹ” (Mt 21:5). Cỡi lừa con để khải hoàn vào thành Giêrusalem. Chúa không cỡi voi hay cỡi ngựa, cũng không ngồi trên kiệu vì Ngài không muốn làm các thiếu nữ Sion phải hoảng sợ. Ngài không muốn bất cứ ai nhìn Ngài bằng cái nhìn đầy kinh ngạc, hoảng hốt và sợ hãi. Vì cỡi voi thì đòi nhiều người phục dịch. Ngồi kiệu cũng phải có kẻ khiêng. Ngồi trên lưng ngựa tuy đơn giản hơn ngồi trên mình voi hay trên kiệu, tuy nhiên, ngồi trên lưng ngựa vẫn là hình ảnh của những kẻ anh hùng, những kẻ chiến thắng nên có quyền kiêu hãnh và cũng khiến nhiều người phải sợ hãi, nể phục. Ngài không muốn tạo cho mình một hình ảnh của kẻ có quyền, không muốn bất cứ ai phải bắt buộc theo và miễn cưỡng mến Ngài. Ngài cũng không dùng sức mạnh của kẻ thắng trận để khống chế và thu phục nhân tâm. Những hình ảnh liên quan đến sức mạnh, quyền lực vì thế đều bị Ngài từ chối. Ngài chỉ muốn một mình đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con, nhỏ bé để tiến vào thành. Một hình ảnh nói lên vẻ thanh bình, đơn sơ, nhẹ nhàng, và tự nhiên. Và đó chính là Ngài, con chiên Thiên Chúa, Ðấng cứu độ trần gian. Nhưng dù đơn sơ ngồi trên lưng lừa, Ngài vẫn là vua chứ không phải chỉ là con Vua Ðavít như người ta đã chúc tụng Ngài. Danh Ngài đáng được vang vọng chúc tụng trên các tầng trời, vì Ngài là Chúa tạo thành vũ trụ. Cả nhân loại phải phủ phục dưới chân Ngài và trước nhan Ngài. Mọi đầu gối, như Thánh Phaolô đã viết, trên trời, dưới đất và trong lòng đất phải quì gối trước mặt Ngài. Việc Ngài chọn ngồi trên lưng một con lừa con là như nói trước với chúng ta về những gì mà Ngài sẽ làm trong Bữa Tiệc Ly khi hạ mình khiêm hạ rửa chân cho các môn đệ. Khi để bọn lý hình hành hạ và chế diễu. Khi chấp nhận bản án bất công. Và khi bị đóng đinh chết treo trên thập tự giá. Làm sao tâm trạng của một người mang trong mình hình ảnh chiến thắng hiển hách, ngồi trên lưng một con chiến mã, ngồi trên lưng một con voi, hay ngồi trong một cái kiệu sang trọng tiến lên giữa tiếng tung hô, lại có thể chấp nhận được việc quì gối xuống, bưng chậu nước đến và quì trước mặt các môn đệ của mình để rửa chân cho chúng. Làm sao một vị đại tướng, một hoàng đế uy nghi trên lưng ngựa dạo qua rừng người hôn hô vang dội lại có thể chấp nhận chịu cảnh trao nộp, chịu đánh đòn, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đội mão gai, chịu xét xử bất công, và chịu đóng đinh chết trần truồng trên thập giá mà không một lời than van, trách móc. Phải đơn sơ, nhân từ, và hiền hậu: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29). Ngồi trên lưng ngựa, lưng voi, hay kiệu sang trọng thì không dễ cúi mình xuống được. Nhất là trong tư thế của kẻ có quyền, kẻ chiến thắng. Cũng không dễ chấp nhận thua thiệt, không dễ đón nhận nhục nhã, không dễ vâng phục thiên ý. Chúa đã dùng con lừa để làm phương tiện di chuyển hôm đó để nói với mọi người rằng, Ngài xứng đáng với tất cả mọi lời chúc tụng. Ngài chính là vua. Ngài là vua chiến thắng. Nhưng trên hết, Ngài là một vị vua nhân từ. Vua thái bình. Vua của tâm hồn con người. Và vì thế, Ngài đã cỡi lừa con mà không cỡi chiến mã. Chúa là vua nhân từ, hiền dịu chứ không phải là vua quyền uy, độc tài, và hà khắc. Ngài thương yêu tất cả. Ngài mong mọi người hãy đến với Ngài, để học cùng Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường”. Làm như vậy, chúng ta mới dễ mở rộng lòng mình đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh mà Ngài đã thực hiện vì chúng ta và cho chúng ta.
Tác giả:
Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
|