Dân Do thái cho rằng bệnh tật là hình phạt của Chúa giáng trên người có tội. Nhưng người mù này, mù từ lúc mới sinh, vậy tội của anh hay tội của cha mẹ anh ta khiến anh ta bị mù? (x. Gioan 9, 1-41 ) Chúa Kitô bác bác bỏ hai quan niệm này.
Ngài tuyên bố không do tội lỗi của cha mẹ, không do tội lỗi của ai cả, anh ta bị mù thuộc về một tật nguyền, và đứng trước quyền phép của Thiên Chúa, tật nguyền bị đẩy lui, được chữa lành, trở thành dịp làm vinh danh Thiên Chúa.
Ngài đã làm phép lạ : dùng nước miếng trộn với bùn, trét vào mắt anh và bảo anh đi rửa ở suối Siloê. Lấy nước miếng chữa bệnh là một bài thuốc cổ truyền mà chính sử gia Tacite có nói tới. Có thể người xưa dùng cả bùn hòa với nước miếng để chữa mắt. Điều ta phải để ý là luật Do thái cấm làm như vậy trong ngày Hưu lễ, mà Chúa Kitô làm tức là đụng độ với người Biệt phái.
Chính ra kết quả hiển nhiên : người mù được sáng mắt, ai cũng công nhận đó là ơn Chúa, người mù cũng nhìn nhận như vậy, thì người Biệt phái có một thái độ khác. Đằng nầy họ vẫn kết án : chữa bệnh trong ngày Hưu lễ là vi phạm luật, là có tội, kẻ chữa bệnh là người tội lỗi. Người mù đã đưa ra lý luận rất vững. Người đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo Ý Chúa thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói ai mở mắt người mù từ mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Lập trường của người mù đối với người làm phép lạ cho anh ta là người đó bởi Thiên Chúa. Anh ta nói : Ngài là Đấng Tiên tri.
Chúa Kitô thương anh, cho anh gặp Ngài và đưa tầm mức Đức Tin của anh đến mức đúng nhất, khi Ngài bảo : anh có tin Con Thiên Chúa không ? và cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô.
Đứng trước hai thái độ tương phảnn nhau rõ rệt : anh mù được xem thấy Chúa, người Biệt phái sáng mắt lại không được xem thấy Chúa, Chúa Giêsu dạy : chính để luận xét mà ta đến thế gian để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy thì trở nên mù. Nguyên nhân ở đâu ? - Thưa ở nơi thái độ của mình. Người mù tin, người Biệt phái không tin. Người mù tin vì nhận được ơn Chúa. Người Biệt phái nhận mình có luật Môisen, thừa kế Giao ước tức là cũng nhận ơn Chúa, nhưng họ lại từ chối Chúa Kitô và sống theo quan niệm chật hẹp, những nét luật chết họ không nhận ra Thiên Chúa có tự do ban ơn vượt mọi khuôn phép của con người, không ai có thể bắt Thiên Chúa hoạt động trong khuôn phép của con người, của luật lệ được.
Thái độ của người Biệt phái rất có thể có trong chúng ta. Chúng ta luôn tự hào nắm giữ luật Chúa, là con cái của Chúa, mà không nhận ra ơn Chúa hoạt động theo Ý Ngài nơi khác, vì thế, có khi chúng ta chống lại ơn Chúa ban cho người khác. Ghen tị khi thấy người khác được ơn, hoặc trội vượt hơn mình. Xem người khác có tội, cho mình trong sạch.
Chúng ta phải khen anh mù can đảm vì dám đương đầu với nhóm có quyền thế. Anh không sợ bị trục xuất. Theo luật Do thái, có ba loại hình phạt : nhẹ thì khiển trách và tội nhân bị tách rời cộng đoàn một tuần, nặng vừa thì phạm nhân bị tách khỏi cộng đoàn 1 tháng, phải mặc đồ tang chế sám hối, nặng nhất thì bị trục xuất vĩnh viễn khỏi cộng đoàn, tài sản có thể bị tịch thu. Hình phạt nặng nhất người Biệt phái dành cho cả những ai dám tin theo Chúa Kitô, thế mà người mù được chữa lành không sợ hãi gì. Anh ta quỳ gối xuống thờ lạy Chúa Kitô khi Ngài cho anh biết Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Đức Kitô ngay trước mặt người Biệt phái.
Đức Tin đòi chúng ta phải chọn, phải can đảm chọn lựa. Đôi lúc phải hy sinh để biểu lộ Đức Tin. Chúng ta không nếm cảnh mù lòa được chữa sáng mắt phần xác, nhưng Đức Tin cho biết Chúa luôn luôn chữa chúng ta sáng mắt phần hồn, và chúng ta luôn luôn phải kêu xin Chúa cứu chữa.
LINH MỤC FX. NGUYỄN HÙNG OÁNH