Đôi ba suy nghĩ về đề nghị “giáo dục văn hóa hòa
bình để biết rời xa mọi hành xử bạo lực”…
Đương nhiên điều đầu tiên là phải hiểu cho ra hai
chữ “hòa bình” này cái đã…rồi mới nói đến những chuyện khác trong đề nghị…Và đã
nói đến việc truy nguyên ngôn ngữ Hán Nôm…thì phải chạy đến với sư phụ
Stê-pha-nô Huỳnh Trụ…May mắn là người viết vớ được một bài của ngài mà trang
wwwsimonhoadalat.com ghi lại đâu vào năm 2012…
Cha Stê-pha-nô chia sẻ nhiều lắm và rất chuyên môn,
nhưng người viết chỉ xin ghi lại gọn gọn như thế này:
Về chữ Bình thì có 23 chữ Hán…
Về chữ Hòa thì có bốn chữ Hán…
[…]
Về nghĩa của chữ Hòa Bình: Thường chỉ trạng thái
không có chiến tranh hay hành vi bạo lực thù ghét, có khi cũng chỉ con người
không khích động. Hòa bình có thể là tự phát, nhưng cũng có thể là do cưỡng chế
những hành vi bạo loạn. Nên hòa bình có nghĩa: (1) An ninh; (2) Không có trạng
thái chiến tranh; (3) Ôn hòa: Dược tính hòa bình – nghĩa là chất thuốc ôn hòa.
Thuật từ này chủ yếu liên hệ đến tình hình bên
ngoài.
Theo nghĩa Công Giáo: “Hòa bình không chỉ là vắng
bóng chiến tranh và không chỉ giới hạn ở việc giữ thế quân bình giữa các lực
lượng đối lập. Thế giới chỉ có hòa bình khi tài sản của con người được bảo vệ,
con người được tự do giao lưu, phẩm giá của con người và của các dân tộc được
tôn trọng, tình huynh đệ được thực thi. Hòa bình là “ổn định trong trật tự” (Thánh
Au-gus-ti-nô, Clv. 19,13), là công trình của công lý (x. Is 32,37) và hoa quả
của đức ái (x. GS 78 , 1-2)”) (GLCG, số 2304)
Giáo Hội – qua Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay, ở chương 5, số 78 – có dạy về “Bản chất cấu tạo hòa bình”
như sau:
Hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng
không chỉ giản lược vào sự quân bình giữa các lực lượng đối phương, cũng không
phải phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng nghĩa thì hòa bình là
“công trình của công bằng” (Is 32, 7). Hòa bình là kết quả của một trật
tự đã được chính Thiên Chúa, Đấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và
phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện
ra trong hành động. Thật thế, mặc dù tự bản chất công ích của nhân loại dĩ nhiên
phải được định luật đời đời qui định, tuy nhiên trong những đòi hỏi cụ thể của
nó, công ích vẫn phải chịu những thay đổi không ngừng với diễn biến của thời
gian. Do đó, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây
dựng mãi mãi. Hơn nữa, ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương,
do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kềm chế dục vọng của mình
và chính quyền phải canh phòng cẩn thận,
Nhưng như thế chưa đủ. Hòa bình ấy chỉ có được
trên trần gian, nếu giá trị của từng cá nhânđược đảm bảo và mọi người
tin tưởng cũng như tự nguyện san sẻ cho nhau những của cải tinhthần và tài năng
của họ. Ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng như
phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu
để xây dựng hòa bình. Như thế, hòa bình cũng là kết quả của tình thương,
một thứ tình thương vượt xa những gì công bằng có thể đem đến.
Phát sinh từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần
gian là hình ảnh và là kết quả của hòa bình Chúa Ki-tô, hòa bình do Đức Chúa Cha
mà đến. Vì chính Chúa Con nhập thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá Người để
hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người tái lập sự hiệp nhất mọi người thành
một dân tộc và một thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính thân xác
Người, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu
đầy lòng con người.
Vậy thì – về phương diện mỗi con người – để có thể
giữ được và xây dựng hòa bình, Giáo Hội dạy chúng ta:
- kềm chế dục vọng của mình,
- tôn trọng giá trị của từng cá nhân,
- chia sẻ cho nhau những của cải tinh
thần và tài năng mỗi người được Chúa ban cho,
- thực thi tình huynh đệ với nhau.
Và giáo dục “văn hóa hòa bình để biết rời xa mọi
hành vi bạo lực”…tức là uốn nắn những người mà mình có trách nhiệm hướng dẫn
để - làm sao và như thế nào đó – họ dần dần có thói quen sống những điều Giáo
Hội - nhân danh Thiên Chúa- để dạy dỗ con cái mình trở thành những gì mỗi người
chọn lựa sống từng ngày với nhau – dù có phải trả một cái giá nào đó…Và đấy là
sự diệu vợi của tinh thần tử đạo…
Hiệp Thông số 107 ( tháng 7 & 8 – 2018) có một bài
viết của Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Muller – Tổng Trưởng Bô Giáo Lý Đức Tin –
viết về Đức Giám Mục Oscar Romero:
Khi các môn đệ đang trên đường đến núi Ô-liu sau
bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su nói với các ông: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì
Thầy, bởi Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên và chiên sẽ tan tác”
(14, 27). Khoảng hai ngàn năm sau, vào chiều ngày 24 tháng 3 năm 1980, Đức Tổng
Giám Mục Oscar Romero cử hành Thánh Lễ tại bệnh viện Chúa Quan Phòng ở San
Salvador. Khi người vừa giảng xong và đi về phía bàn thờ thì ngài bị bắn. Hôm
trước dó, Đức Tổng Giám Mục đã kêu gọi quân đội Salvador đừng thi hành mệnh lệnh
bắn giết của nhà cầm quyền. Và ngài đã lường trước những hậu quả của hành động
công khai này: “ Các bạn hãy nói với họ: nếu họ giết tôi, tôi vẫn tha thứ cho họ
và tôi chúc phúc cho những người phải thi hành lệnh giết tôi” .
[…]
Sứ điệp của Đức TGM Romero là đức tin Công Giáo,
được chứng thực trong Kinh Thánh và được dạy dỗ cách rõ ràng trong lời tuyên
xưng đức tin khi chịu Phép Rửa: Chúng tôi tin vào Thiên Chúa là Cha, Con và
Thánh Thần. Ngài mô tả trái đất là “ngôi nhà cùng chia sẻ”, là cánh đồng nơi đó
chúng ta cùng canh tác. Chúng ta không phải đợi đến lúc chết thì mới bước vào
Vương quốc của Thiên Chúa. Ki-tô giáo không phải là tôn giáo của “đời sau”.
Vương quốc Thiên Chúa vượt trên thứ nhị nguyên phân biệt “đời sau” và “đời này”.
Bởi lẽ Chúa Giê-su là Thiên-Chúa-làm-người, nơi Người sự viên mãn của thời gian
đã đến. Hội Thánh lữ hành hướng tới vinh quang sẽ đến, đồng thời nhấn mạnh trách
nhiệm hiện tại trong thế giới.
[…]
Chúng ta đừng lẫn lộn lời rao giảng của Hội Thánh
với chuyện chính trị. Ở El Salvador (và nhiều quốc gia khác), các linh mục và
giám mục đã tranh đấu cho sự công bằng, chống lại những thể chế độc tài, dù
thiên hữu hay thiên tả, các ngài bị tố cáo cách sai lầm là đã cổ vũ chủ nghĩa
Mác và Cộng sản, hoặc ngược lại là cổ vũ chủ nghĩa tư bản. Cách nhìn chiếm ưu
thế là cho rằng nếu Hội Thánh không muốn đứng hẳn về một phía trong cuộc chiến
giữa tư bản và cộng sản, thì Hội Thánh nên rút khỏi lãnh vực công và lo việc
thực hành tôn giáo như chuyện riêng tư cá nhân.
Làm như thế là khước từ Tin Mừng. Vương quốc của
Thiên Chúa bắt đầu từ thế giới này. Cái bên trong và cái bên ngoài, hiện tại và
tương lai, những thiện hảo vật chất giúp ta duy trì sự sống và những thiện hảo
thiêng liêng giúp chúng ta sống với Chúa, tất cả không thể tách biệt nhau. Đấy
là điều Đức TGM Oscar Romero rao giảng, bằng ngôn từ hoàn toàn chính thống.
Những chia sẻ trên đây cũng na ná như những gì Bậc
Đáng Kính – Đức cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận – đã từng chia sẻ
với giới trẻ thế giới qua dụ ngôn năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá (Gio. 6, 5 – 11)
ở “Chiếc Bánh Thứ Năm : chiếc Bánh của Yêu Thương đến Hiệp Nhất – chúc thư của
Chúa Giê-su” :
[…]
Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20
chiến sĩ nam nữ học tiếng Latinh với một cựu tu sĩ, để có thể đọc được các tài
liệu của Giáo Hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh.
Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học rất tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy
hỏi tôi:
-Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng
Latinh không ?
-Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết
anh thích bài nào ?
-Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.
Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris
Stella…Các bạn biết anh ta chọn bài nào không? Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin
Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm…)
Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta
thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra tập
thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát : Veni Creator Spiritus…Tôi rất cảm động,
làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator”
cho mình nghe!
Anh thứ hai lại chọn một bài hát tiếng Việt:
“Ngày vinh phước hôm nay, hát mừng Tô-ma Thiện” – kinh thánh tử đạo chủng sinh.
Anh rất thích nên thuộc lòng cả bài. Tiếng anh ngâm nga, như nhắc tôi can đảm
chịu khó.
Ôi ! cái chết đẹp thay ! Trên cổ một vòng dây.
Cái vòng dây yêu mến. Buộc lòng tớ theo Thầy.
Đâu có tình yêu thương, đó có vui tươi an bình,
vì Chúa Giê-su ở đó.Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ. Bác ái là chứng
tích để biết con là môn đệ Chúa (Gio 13,35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm.
[…]
Điều khó hiểu nhất đối với chiến sĩ gác tù là
thái độ tha thứ, yêu thương địch thù của mình. Có hôm mấy anh gác hỏi tôi:
-Ông có thương chúng tôi không ?
-Có chứ, tôi yêu thương các anh thành
thực, không có gì là khách sáo đâu !
-Kể cả khi người ta giam ông, mất tự
do, năm này sang năm khác ? Không xét xử gì ?
-Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm
sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.
-Chừng nào được tự do, ông có sai
giáo dân của ông trả thù không ?
-Không, tôi vẫn yêu thương các anh,
dù các anh có muốn giết tôi.
-Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại ông
?
-Vì Chúa Giê-su đã dạy tôi yêu thương: nếu tôi
không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Ki-tô hữu nữa.
Thời gian vừa qua có sự xôn xao về chuyện áp lực này
kia đối với Đức Cha Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý & Hòa Bình của HĐGM.VN vì những hoạt
động cho công lý cũng như hòa bình của ngài…Nếu quả thực sự xôn xao ấy là sự
thật…thì có nghĩa là những người chủ trương thế này thế khác…chưa hiểu gì về
trách nhiệm của từng vị mà HĐGM đề cử…Các ngài làm công việc của mình – không
nhân danh mình – mà nhân danh HĐGM, nhân danh Giáo Hội Việt Nam, nhân danh Giáo
Hội Toàn Cầu…Một vị Giám Mục không được HĐGM bầu…mà làm công việc ấy…thì là nhân
danh cá nhân vị đó, hoặc là với tư cách chủ chăn hoặc là vì lương tâm của một
con người…Vả lại, trong HĐGM.VN , còn có nhiều những vị phụ trách các lãnh vực
khác như Phụng Vụ, Kinh Thánh, Gia Đình, Di Dân, Nghệ Thuật Thánh…Những lãnh vực
này có thể nói là “chuyên môn”…và “không lộ diện”…thế thôi…Trong nền giáo dục
ki-tô giáo…thì một người – khi được Thiên Chúa qua Giáo Hội – đặt để để lo một
công việc nào đó vì lợi ích cả tinh thần lẫn vật chất của một cộng đoàn, con
người ấy phải dấn thân hết mình và bằng mọi cách…Dĩ nhiên có thể có những chần
chừ, những ngại ngần – đấy là bản chất tự nhiên của bất cứ con người nào có mặt
trong cuộc trần này…Thế nhưng tận thâm tâm, ai cũng hiểu là phải hết mình…
Sáng nay khi lướt mạng, người viết lại được đọc một
bức thư ngỏ của một Linh Mục gửi cho báo The New York Times về vấn đề “Linh Mục
ấu dâm”…vẫn là chủ đề nóng và hái ra tiền…thỉnh thoảng lại bùng lên…vì nhiều
nhiều mục đích của nhiều nhiều những con người, những nhóm người, thậm chí cả
một phong trào…nhằm chống lại Giáo Hội…Vào khoảng năm 1999 – khi anh bạn từ Mỹ
đưa về cuốn The gift of peace – Hồng Ân An Bình – của Đức Hồng Y Joseph Bernadin,
người viết đã ngồi dịch cuốn này ra tiếng Việt…Trong cuốn sách ngài hoàn thành
một thời gian rất ngắn trước khi qua đời, ngài chia sẻ những trải nghiệm cuối
đời đứng trước ba thừ thách ngài đã vượt qua: - bị tố cáo gạ gẫm một chủng sinh
trẻ ở Cincinnati; vật lộn với căn bệnh ung thư tuyến tụy; chiến đấu và giúp
những người khác chiến đấu với bệnh ung thư…Về chuyện bị tố cáo gạ gẫm một chủng
sinh trẻ, ngài đã âm thầm gặp gỡ để nói lên sự tha thứ cho anh ta vì anh ta đã
vu không ngài…Trong cuộc gặp gỡ ấy, anh ta cho biết là đã làm theo lời của một
người vốn khó chịu với ngài…để có tiền…
Cha Martin Lasarte – một Linh Mục Dòng Don Bosco (SDB)
– đã có một lá thư ngỏ như thế này:
Anh bạn phóng viên thân mến,
Tôi chỉ là một linh mục Công Giáo bình thường.
Tôi cảm thấy hạnh phúc và tự hào về ơn gọi của mình. Trong 20 năm qua, tôi đã
sống ở Angola với tư cách là một nhà truyền giáo.
Tôi đọc trong nhiều phương tiện truyền thông, đặc
biệt là tờ báo của bạn, sự phóng đại của chủ đề linh mục ấu dâm, nhưng trong một
cách bệnh hoạn, vì chỉ tìm kiếm chi tiết trong đời sống các linh mục, các sai
lầm trong quá khứ.
Có một trường hợp linh mục ấu dâm, trong một
thành phố ở Mỹ, trong những năm 1970, một trường hợp ở Úc trong thập niên 1980,
và cứ như thế, có trường hợp mới đây hơn…Chắc chắn rằng tất cả các trường hợp
này đáng bị khiển trách!
Có các bài báo được cân nhắc và cân bằng, có các
bài khác lại phóng đại, đầy thành kiến và thậm chí hận thù nữa. Tôi tự cảm thấy
đau đớn nhiều về sự dữ lớn lao rằng các người đáng lẽ là dấu chỉ của tình yêu
Thiên Chúa, lại là con dao găm trong cuộc sống của các người vô tội. Không có từ
ngữ nào để biện mình cho hành vi như vậy. Không có nghi ngờ rằng Giáo Hội phải
là đứng về phía kẻ yếu, và người nghèo. Vì lý do này, tất cả các biện pháp mà
người ta có thể dùng để ngăn ngừa và bảo vệ nhân phẩm của trẻ em sẽ luôn luôn là
một ưu tiên.
Nhưng sẽ là kỳ cục hết sức khi có ít tin tức và
sự thiếu quan tâm đến hàng ngàn các linh mục khác, đã hiến đời mình và phục vụ
hàng triệu trẻ em, thanh thiếu niên và các người bất hạnh nhất ở bốn phương trời
của thế giới.
Tôi nghĩ rằng đối với tờ báo của bạn, các điều
sau đây không hề được quan tâm để nói tới:
1 – Tôi phải di chuyển qua các con đường đầy mìn
do chiến tranh trong năm 2002, để giúp đỡ các em nhỏ đang chết đói từ Cangumbe
đến Lwena (Angola), bởi vì cả chính quyền không thể làm được và các tổ chức phi
chính phủ không được phép làm.
2 – Tôi đã chôn cất hàng chục trẻ em chết do việc
đời chỗ vì chiến tranh.
3 – Chúng tôi đã cứu sống hàng ngàn người dân ở
Mexico, nhờ một trung tâm y tế duy nhất hiện hữu trong một vùng có diện tích
90.000km2, với việc phân phát thực phẩm và các loại giống cây trồng.
4 – Chúng tôi đã có thể cung cấp giáo dục và
trường học trong mười năm qua cho hơn 110.000 trẻ em.
5 – Cùng với các linh mục khác, chúng tôi đã cứu
trợ cho gần 15.000 người ở các trại du kích quân, sau khi họ đầu hàng và giao
nộp vũ khí, bởi vì thực phẩm của chính phủ và của Liên Hiệp Quốc không thể đến
được với họ.
6 – Không phải là tin tức thú vị khi một linh mục
75 tuổi, cha Roberto, rảo qua thành phố Luanda ban đêm, chăm sóc các trẻ em
đường phố, dẫn họ đến một nơi trú ngụ, để cho họ không bị ngộ độc bởi xăng dầu
mà họ hít để kiếm sống, như là người ném lửa.
7 – Việc xóa nạn mù chữ cho hàng trăm tù nhân
cũng không phải là tin hay.
8 – Các linh mục, như cha Stephane, tổ chức các
nhà tạm trú cho các thanh thiếu niên bị ngược đãi, đánh đập, hãm hiếp, để họ tạm
lánh.
9 – Linh mục Maiato, 80 tuổi, đến thăm từng ngôi
nhà một của người nghèo, an ủi người bệnh và người tuyệt vọng.
10 – Không phải là tin hấp dẫn khi hơn 60.000
trong số 400.000 linh mục và tu sĩ hiện nay đã rời đất nước và gia đình của họ
để phục vụ anh em mình tại các quốc gia khác trong các trại phong, bệnh viện,
trại tị nạn, cô nhi viện cho trẻ em bị cáo buộc là phù thủy, hoặc cho trẻ em mồ
côi do cha mẹ chết vì AIDS, trong các trường học dành cho người nghèo nhất,
trung tâm dạy nghề, trung tâm tiếp nhận người nhiễm HIV.
11 – Nhất là các linh mục dành đời mình trong các
giáo xứ và cứ điểm truyền giáo, động viên mọi người sống tốt hơn và nhất là
thương mến người khác.
12 – Không phải là tin hấp dẫn khi bạn tôi, cha
Marcos Aurello, để giải cứu trẻ em trong cuộc chiến ở Angola, đã đưa các em từ
Kalulo đến Dondo và khi trên đường trở về, cha bị bắn chết, và một tu sĩ tên là
Phan-xi-cô cùng năm nữ giáo lý viên bị chết trong một tai nạn, khi họ đi giúp đỡ
các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh nhất của đất nước.
13 – Hàng chục các nhà truyền giáo tại Angola đã
chết vì thiếu các phương tiện y tế, chỉ vì bệnh sốt rét đơn giản.
14 – Nhiều người khác đã bị tung xác lên trời do
mìn nổ khi đi thăm các tín hữu, quả vậy, trong nghĩa trang ở Kalulo, có mộ của
các linh mục đầu tiên đến khu vực này: không ai sống hơn 40 tuổi cả…
15 – Không phải là tin hấp dẫn, khi một linh mục
“bình thường” sống công việc hằng ngày của mình trong khó khăn và niềm vui của
mình, sống âm thầm cả đời vì lợi ích của cộng đoàn mình phục vụ.
Sự thật là linh mục chúng tôi không cố gắng để có
tên trong tin tức, nhưng chỉ mang “Tin Mừng”, và Tin Mừng này không ồn ào, đã
bắt đầu vào buổi sáng Phục Sinh. Một cây ngã tiếng ồn ào nhiều hơn cả cánh rừng
đang mọc và phát triển.
Người ta gây nhiều tiếng ồn cho một linh mục phạm
một lỗi lầm, hơn là gây tiếng ồn cho hàng ngàn linh mục hiến đời mình cho hàng
chục ngàn trẻ em và người nghèo khó.
Tôi không muốn làm một biện hộ cho Giáo Hội và
các linh mục.
Một linh mục không phải là một anh hùng, cũng
không phải là một người rối loạn thần kinh. Linh mục chỉ là con người bình
thường, và với bản tính con người của mình, tìm cách theo Chúa và phục vụ Ngài
trong anh chị em của mình.
Linh mục có nhiều khổ đau, nghèo đói và sự mỏng
giòn như các người khác, nhưng linh mục cũng có vẻ đẹp và hùng vĩ như mọi thụ
tạo khác…Việc nhấn mạnh một cách ám ảnh bẩm sinh và phá hoại về một đề tài đau
đớn, trong khi mất tầm nhìn chung của công việc, tạo ra thật sự các biếm họa tấn
công vào hàng linh mục Công Giáo, do đó tôi cảm thấy bị xúc phạm.
Tôi chỉ yêu cầu anh, người bạn phóng viên thân
mến, hãy tìm kiếm Chân, Thiện, Mỹ. Điều này sẽ làm lớn mạnh nghề nghiệp của anh.
Chào anh trong Đức Ki-tô.
Linh mục Martin Lasarte, SDB
(nguồn:
http://conggiao.info)
Người viết ghi lại lá thư ngỏ này cũng không nhằm
biện hộ cho bất cứ ai, nhưng chỉ là để suy nghĩ cho chính bản thân mình, để chia
sẻ những bất công Mẹ Giáo Hội hằng ngày vẫn gồng mình để sống lệnh truyền mang
Tin Mừng của Chúa đến cho con người, và để thầm nói với chính mình: linh mục là
như thế đó…
Sáng nay – thứ ba ngày 11 – Phụng Vụ Lời Chúa nói
đến việc Chúa cầu nguyện thâu đêm và buổi sáng, Chúa chọn Nhóm Mười Hai…Người
viết có chia sẻ với cộng đoàn Phụng Vụ nhỏ bé của mình như thế này: dù chỉ còn
một con người trên mặt đất này…thì vẫn có chuyện gọi và chọn từ Chúa…
Để kêt thúc, xin được nhắc lại những gì Giáo Hội dạy
ki-tô hữu hầu sống sự diệu kỳ của tinh thần tử đạo mà các thế hệ những
người tin Chúa luôn cố gắng vươn tới:
- Kiềm chế dục vọng của mình,
- Tôn trọng giá trị của từng cá nhân,
- Chia sẻ cho nhau những của cải tinh
thần và tài năng mỗi người được Chúa ban cho,
- Thực thi tình huynh đệ với nhau..
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp