Tình trạng tan vỡ ấy của Giáo Hội phải chăng
đang trên đường giảm thiểu, hoặc ít ra là cũng có khuynh hướng giảm bớt dần ?
Có thể là như vậy, nếu người ta hiểu sự việc dưới một
lăng kính nghiêm trọng – nghĩa là như một tình trạng ly giáo vậy…Thực ra thì
tình trạng cũng chỉ tương tự như những nhóm chủ trương đặc sủng thôi – nghĩa
là, như tôi đã nói, họ hoàn toàn không có chủ trương ly khai. Nhưng, ngoại trừ
nhóm ly khai theo chủ trương của Đức Cha Lefebre vẫn chưa chấm dứt, thì chúng
ta cũng không nên quá lạc quan. Tiên vàn là vì việc họ quay trở lại trong lòng
Giáo Hội, nhưng họ vẫn chưa lên tiếng chính thức phủ nhận những ý tưởng của họ,
và điều đó đưa đến một nguy cơ lớn là sẽ thúc đẩy bà con giáo dân Công giáo có
khuynh hướng chống đối sẽ ra đi, dù không thực sự có một hành động ly tách nào
cả. Với những người khác, bực bội vì sự co cụm lại của các thẩm quyền Roma và
nhiều nhiều những vị trong hàng giáo sĩ cấp cao về các vấn nạn tình dục có chiều
hướng trở thành những cuộc luận chiến thời gian vừa qua. Cuối cùng, khá là khó
chuyện quay trở lại với việc cử hành phụng vụ như ngày xưa – quá ư là cứng cỏi
và lạnh lùng – như nhóm này vừa mới lên tiếng khẳng định…và làm cho thành viên
nhóm đặc sủng thấy hài lòng, bởi họ được khích lệ thường xuyên gặp gỡ riêng tư
với nhau và tách biệt khỏi phần còn lại trong số bà con tín hữu.
Để kết luận, nếu người ta tránh được nguy cơ về một sự
tan vỡ, trong ý nghĩa mạnh của từ này, nghĩa là những nguy cơ của một sự tan vỡ
thành từng nhóm nhỏ trong Giáo Hội, một sự phân rẽ giữa những nhóm không có với
nhau một ngôn ngữ chung, một sự buông lỏng trong vấn đề hiệp thông trong Giáo Hội,
và sẽ đi đến tình trạng mất đi sức sống cách nghiêm trọng – nghĩa là ở trong một
tình trạng không thể tưởng tượng nổi!!! Và tôi không muốn đề cập đến một yếu tố
khác, không phải là chuyện không còn sự hiệp nhất nữa, mà là tình trạng mất đi
tinh thần hiệp nhất : sẽ là một sự giảm bớt rất lớn ơn gọi linh mục, và sứ vụ
linh mục khi ấy chỉ còn là chuyện nhằm để duy trì, phục hồi và khuyến khích sự
hiệp nhất giữa những người tín hữu.
Như vậy thì có thể cho rằng là không còn lại
gì từ cái “được” của Công Đồng Vaticanô II, mà tham vọng là muốn đem lại một luồng
gió mới cho Giáo Hội và qui tụ bà con tín đồ Công Giáo dựa trên những mục tiêu
chung, phải không, thưa cha ?
Vaticanô II nhắm đến chuyện hòa hợp giữa Giáo Hội và
thế giới của thời bấy giờ, hòa hợp giữa truyền thống và đổi mới – tinh thần
Kitô giáo đã ảnh hưởng đến lịch sử khá dài của nhân loại, và chính cái tinh thần
ấy cũng đã từng thừa kế tư tưởng hy lạp và trật tự Rôma, còn tinh thần của trào
lưu thời hiện đại lại được nuôi dưỡng bởi tính hợp lý của triết học và khoa học,
thứ tinh thần đã hình thành nên một xã hội trần thế và dân chủ, luôn khát khao
tìm kiếm cho bằng được những khoản tự do cá nhân.
Công Đồng không hề ảo tưởng, bởi cái thế giới mới này
đã hình thành ngay trong lòng thế giới Kitô giáo và đã không chối bỏ tinh thần
của Tin Mừng mà nó thỉnh thoảng vẫn rất hãnh diện để công bố, bất chấp những cuộc
đấu tranh khá là khốc liệt đã đưa đến tình trạng tách biệt của các Chính Phủ
thuần dân gian và những xã hội tục hóa ra khỏi tầm ảnh hưởng của các thẩm quyền
Giáo Hội. Về phia Giáo Hội, vấn đề cốt yếu là
nhận ra được nơi những giá trị và những nguyên lý tạo cảm hứng cho tinh
thần hiện đại những gì tương hợp với tinh thần Tin Mừng, và thường xuyên khai
triển khía cạnh này; nghĩa là sẵn sàng lên tiếng đảm bảo một sự phối hợp với xã
hội trần thế để đạt tới những kết quả trung thực; sẵn sàng ủng hộ việc bà con
giáo dân tham gia vào các giá trị của xã hội, ít ra là một phần nào đó và ở một
mức độ nào đó, sẵn sàng khuyến khích bà con giáo dân sống cách đồng điệu hơn đức
tin của mình trong cái thế giới trần thế vốn cũng là thế giới của họ, bằng cách
chăm lo công việc của mình đồng thời cũng phục vụ thành phố mình sinh sống; và
sẵn sàng để tạo sự thoải mái cho bà con giáo dân lui tới thăm hỏi những anh chị
em đồng đạo nguội lạnh của mình, những anh chị em không lui tới nhà thờ nữa – bởi
cái lý do rất ư phi lý là Giáo Hội đã từ
chối những sự tự do mà Xã Hội hiện đại mang lại cho công dân của mình – những
món quà tự do nhiều khi phải trả giá bằng đấu tranh mới có thể có được…
Phần lớn bà con giáo dân đã dấn thân trên con đường do
Công Đồng vạch ra, và có những người dấn thân là do tinh thần vâng phục với một
chút ngập ngừng nào đó, nhưng phần đa số
là một sự dấn thân với niềm tin và cả niềm hoan lạc nữa, bởi ngay từ thời thế chiến thư hai, họ đã từng
khao khát một sự đổi mới như vậy của Giáo Hội, và đấy cũng là trường hợp của tấcộng
đoànt cả những ai đã từng chiến đấu trong những phong trào khác nhau của Hoạt Động
Tông Đồ Giáo Dân. Cho nên không nghi ngờ gì nữa việc Công Đồng đã mang lại cho
Giáo Hội một sức sống mãnh liệt trải dài qua nhiếu thập kỷ…Có vẻ như không đến
nỗi quá phô trương khi bảo rằng tất cả những ai kiên tâm thường xuyên cầu nguyện
và mang lại cho đời sống các giáo xứ một sự linh hoạt thực sự…thì đấy là nhờ ở
tầm ảnh hưởng của Công Đồng – và dĩ nhiên thành quả ấy cũng đáng giá lắm chứ !
Thật là dễ để viện cớ rằng Công Đồng không ngăn cản
các cộng đoàn giáo nhỏ hội tự trút bỏ tất cả, và những người theo chủ nghĩa
truyền thống cũng chẳng cần phải ồn ào lên án Giáo Hội về quyết định tự trút bỏ
ấy làm gì. Bởi vì làm như thế là đã quên đi quá sớm tình trạng của Giáo Hội từ
cuối thế kỷ XIX…Lúc ấy, Giáo Hội đã mất đi phần lớn tầng lớp thợ thuyền – bởi
Giáo Hội không thể chống đỡ được với tình trạng ồn ào của giới tư bản kinh tế vừa
xuất hiện – đồng thời Giáo Hội cũng để mất đi một phần rất đông giới trưởng giả
theo chủ nghĩa tự do – tất cả là do những phản ứng cũng như thái độ khó chịu của
Giáo Hội đối với nền Cộng Hòa và các thứ luật lệ trần thế lúc bấy giờ ( dĩ
nhiên là tôi chỉ muốn nói đến tình trạng của nước Pháp mà thôi). Tình trạng vô
tín lan rộng chung chung là qua chương trình giáo dục được phổ quát hóa, và sự
coi thường của Giáo hội đối với các môn khoa học lịch sử cũng như tự nhiên, đặc
biệt là tại Công Đồng Vaticanô I, rồi đến thời điểm cơn khủng hoảng từ chủ
nghĩa hiện đại, không hình thành nhằm để cổ võ việc duy trì tinh thần vâng phục
nơi những con người có đầu óc chỉ muốn chạy theo chủ thuyết duy lý trí cũng như
thuần khoa học. Trong nửa đầu thế kỷ XX, người ta đã cảm thấy lo lắng nhiều về
tình trạng giảm bớt việc thường xuyên
thi hành đời sống tôn giáo cũng như sự mộ mến hàng giáo sĩ, đồng thời xin cũng
đừng quên rằng người ta vẫn thường tự hỏi
rằng nếu như nước Pháp đã không trở thành “đất nước của giòng chảy truyền
giáo”…thì sẽ như thế nào, đấy cũng là chủ đề của một cuốn sách gây ồn ào một thời
trước khi thế chiến thứ hai lắng dần xuống…Sau thế chiến cho thấy một sự giảm bớt
thấy rõ tình trạng trên, nhưng những khuynh hướng cũ đứng trước tình trạng suy
thoái tôn giáo đã lấy lại sự thắng thế rất sớm và rất mau. Ý muốn dập tắt tình
trạng đó cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến việc triệu tập Công Đồng
Vaticanô II. Chắc chắn là Công Đồng sẽ làm sống lại đức tin của khá nhiều bà
con giáo dân, nhưng cũng không hy vọng có thể đưa trở lại Giáo Hội những người
đã bỏ ra đi, đồng thời cũng không thể ngăn cản việc giới trẻ đã tới lúc dần dần
rời bỏ Giáo Hội…khi họ thoát khỏi quyền giám hộ của cha mẹ…đến độ “thế hệ
Vaticanô II” lúc này đã ở tuổi hưu trí rồi nhưng cũng chẳng có thể vực dậy được
gì, hay có thể nói là với một kết quả quá mong manh, ít ỏi…
Cái tình trạng như thế bao trùm lên tương lai của Giáo
Hội vô vàn những não trạng lưỡng lự rất đỗi đớn đau, bởi nó không thể giúp duy
trì sự bình an giữa các cộng đoàn gia đình tinh thần với nhau. Giới chủ trương
“truyền thống chủ nghĩa” hay “bảo thủ” lên án những đổi thay và kêu gọi việc
quay trở về lại với tình trạng trước đây; những người tự cho mình là “tiến bộ”,
nghĩa là trung thành với Vaticanô II, thì lên án tầng lớp bảo thủ là làm cho Giáo Hội mang một bộ dạng cổ lỗ, cũ kỹ,
ưa cau có và thích trừng phạt…khiến giới trẻ phải chạy trốn; còn giới chủ
trương “đặc sủng” thì tìm cách trình bày “những gì là của mình” như là một nơi
trú ẩn an toàn nhất cho đức tin…mà không quan tâm gì đến cái dáng vẻ chủ thuyết
cộng đồng của mình và quá ư khoa trương đến độ tạo nên cho mình dáng vẻ gần như
là một thứ “giáo phái” vậy…
Những khác biệt ấy – dù kém cỏi bao nhiêu đi chăng nữa – thì với tôi
- chúng cũng không minh chứng gì về đức
tin sâu xa, nhưng chỉ là niềm tin, thậm chí chỉ đơn gián là một tư thế tôn giáo
mà thôi…
Vậy thì từ tình trạng như thế, cha nghĩ gì ?
Đâu là sự khác biệt – theo cha – giữa đức tin, niềm tin và tôn giáo ?
Đấy là một sự phân biệt rất riêng đối với tôi – một sự
phân biệt hoàn toàn không nhằm nói đến sự bất cứ một sự đối nghịch nào giữa ba
từ đó cả, nhưng chỉ nhằm mục đích tránh những mơ hồ có thể có…
Đức tin chính
là sự tán đồng dành cho những điểm nền tảng trong mạc khải Công giáo, những gì
được trình bày trong kinh Tín Kính của các Tông Đồ, và sự dấn thân sống theo tinh thần Phúc Âm; đức
tin được thể hiện trong việc tuân giữ các tín điều, những điều phải tin trong
giáo lý và những thực hành tôn giáo, nhưng cốt yếu đức tin là một, hiệp nhất và
có cơ cấu : đấy là hành vi tin tưởng nơi Đức Kitô và đi theo con đường ơn cứu độ
mà Người đã vạch ra.
Niềm tin thì
ngược lại lại hình thành tử rất nhiều những tín điều và giáo lý – với thẩm quyền
và tầm quan trọng rất dễ biến đổi -, nghĩa là niềm tin bao gồm tất cả những gì
giáo lý dạy; nó ít có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày, nó thường là
sàn phẩm di truyền từ gia đình hay môi trường chung quanh mà không hề là đối tượng
cho một niềm xác tín cứng cáp và có suy nghĩ, hoặc nó để cho những chọn lựa chủ
quan khuynh loát – những chọn lựa không mấy lý trí và nhiều khi mâu thuẫn, chẳng
hạn như chuyện về những thăm dò ý kiến hiện nay : có những người chủ trương đề
cao niềm tin vào ma quỷ như tiêu chuẩn của đức tin, những người khác lại tuyên
xưng niềm tin vào Đức Kitô nhưng không chấp nhận chuyện sống lại của những người
chết, hay ngược lại…
Còn về tôn giáo – vốn là nguyên tắc của đời sống
đức tin trong cộng đồng những người tin…Tôn giáo lo chuyện đưa ra những thứ luật
lệ, những qui định về luân lý, những thực hành nghi thức, những vấn đề thực phẩm,
các nghi thức sám hối, những hình thức đạo đức, và – với nhiều người – tôn giáo
rút gọn lại trong những thực hành này/khác mà nhiều người gắn bó với do thói
quen nếu không bảo là do mê tín dị đoan, bởi thậm chí họ cũng không biết họ có
còn thực sự là những người tin nữa hay không : chẳng hạn như những gì người ta
thấy nơi các những người Công giáo đã biểu lộ sự tôn kính Đức Maria Nữ Trinh
ngang hàng với Mình Thánh Chúa, trong khi đó có không ít những người khác lại
chẳng bao giờ đặt chân đến Nhà Thờ nữa để thắp lên một ngọn nến trước một pho
tượng thánh hay bỏ chút bổng lộc vào hòm cúng…
Chung chung thì đấy là những gì tôi nghĩ về sự khác biệt
giữa ba từ - đức tin, niềm tin, tôn giáo – Nó cho thấy chúng ta đừng có đánh
giá thấp điều đã gây phân hóa giữa các cộng đồng gia đình tinh thần mà chúng ta
đã nói với nhau trên đây, đồng thời cũng đừng nghi ngờ gì về bất kỳ hội nhóm
nào cho rằng họ thiếu đức tin. Chẳng hạn những người chủ trương “ bảo thủ”, rất
nhạy bén với nguyên tắc quyền lực, thì đặt để tinh thần vâng phục Roma lên trên
tất cả; những người chủ trương “truyền thống”…thì lại đề cao sự trung thành với
những cử hành phụng vụ xưa cũ; những Kitô hữu “ưa phê phán” , nổi bật với một
trào lưu triết lý tự do, sẽ có khuynh hướng tương đối hóa một số giáo thuyết mới
mẻ chủ trương phải giữ sự trung thành với Kinh Thánh; và những đầu óc “phản chứng”…thi
lại kêu gào làm sao đó để đưa cái cốt lõi Tin Mừng về với công lý; trong khi đó
thì các nhóm chủ trương “đặc sủng” …thì lại chú tâm cách đặc biệt đến lòng đạo
dức tập thể hơn là qui định khắt khe của phụng vụ, và những tín hữu được giáo
huấn cách nghiêm túc về các chiều hướng của Công Đồng Vaticanô II…thì lại có
chiều hướng nghiêng về việc làm mới lại phong cách sống trong Giáo Hội vá việc
nỗ lực làm sao để phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng cho thế giới.
Và các bạn thấy đấy, tất cả những điều đó không hề là
những vấn nạn đức tin tạo nên sự phân hóa giữa các tín hữu, nhưng là những cách
thế khác nhau nhắm để qui chuẩn hóa niềm tin hay việc thực hành niềm tin, những
“tín điều nền tảng” của đức tin…như được trình bày trong Kinh Tin Kính không là
nguyên nhân; nhưng những phong cách sống tôn giáo khác nhau, thường có động lực nhất định từ nền văn hóa, từ môi trường
xã hội, từ nền giáo dục đã nhận lãnh, từ sự chọn lựa khuynh hướng chính trị…có
thể che giấu những phân hóa sâu xa trong cách thế hiểu và sống đức tin. Chẳng hạn
như đức tin không chấp nhận để mình bị thương tích khi những người chủ trương
theo truyền thống, do việc gắn bó một cách sít sao với những nghi thức xưa cũ,
sẽ đi đến tình trạng từ chối thẩm quyền của Công Đồng Vaticanô II, và ở phía
ngược lại cũng vậy, những tín hữu tha thiết với sự đổi mới thì lại bị ám ảnh nặng
nề bởi những mới mẻ đến độ họ tỏ bày sự dè bỉu rất rõ với những truyền thống cổ
xưa. (còn tiếp)
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch