Partez
hérauts de la Bonne Nouvelle
Voici
le jour appelé par vos voeux
Rien
désormais n’enchaine votre zèle
Partez
– amis, que vous êtes heureux
Oh
! qu ‘ ils sont beaux , vos pieds missionnaires
Nous
les baisons avec un saint transport
Oh
! qu’ils son beaux sur ces lointaines terres
Où
règne l’erreur et la mort
Ai đó đã tạm dịch như thế này:
Ra
đi – hỡi những cánh chim loan báo Tin Mừng
Đây
là ngày đã từng ước nguyện !
Từ
nay không gì hãm lại được nhiệt huyết của bạn
Hãy
ra đi – hỡi người bạn hạnh phúc
Ôi
! Đẹp thay đôi bàn chân thừa sai
Chúng
tôi hân hoan hôn lên chúng
Ôi
! Những bàn chân đẹp khi bước đi trên miền đất xa xăm,
Nơi
sai lầm và chết chóc vẫn ngự trị…
Cha Pierre Alexandre – Cố Trí ( tiếp theo)
Trong cuốn sổ tang của Cha Pierre Alexandre là
bản tóm lược cuộc đời của vị thừa sai này mà người viết rất thích thú để giới
thiệu…
Cha Alexandre chưa tròn lục tuần khi ngài được
Thiên Chúa gọi về…Mặc dù ngài lâm bệnh trong một thời gian dài, nhưng “Ai Tín”
được loan báo cũng làm cho những người yêu mến ngài thấy bất ngờ và đau đớn…Bởi
chúng tôi biết rằng ngài đã mạnh mẽ hoạt động tông đồ trở lại; từ một năm qua,
ngài làm tuyên úy cho cộng đoàn Các Chị Hổ Trợ các linh hồn trong luyện ngục ở
Lộ Đức…Và đây cũng là nơi ngài an nghỉ sau một vài ngày nằm bệnh viện do bị một chỗ
viêm trong lồng ngực…Đó là ngày mùng 2 tháng 4 – ngày Lễ Chúa Phục Sinh…
Ngay từ thời tuổi trẻ, ngài đã liên tục có những
chuyến đi…Thân phụ ngài vốn là một nhân viên đường sắt…Cuộc đời thừa sai của
ngài là một chuỗi những di chuyển…Hầu như hằng năm, chúng tôi đều gặp ngài ở những
địa sở khác nhau…Thiên Chúa và những nhu cầu muốn điều đó nơi ngài…Bất chấp
tình trạng sức khỏe của mình, ngài luôn sẵn sàng để đáp lại lời mời gọi của
Chúa qua các Bề trên…Khi thì người ta gặp ngài trong sứ vụ phục vụ các Sư
huynh, lúc lại gặp ngài trong vai trò một giáo sư, một người điều hành Trại
Phong…và là quản lý Trung tâm Truyền giáo hai lần…
Năm 1936, tình trạng bệnh hoạn đã buộc ngài phải
trở lại Pháp; thế nhưng rồi ngài lại có dịp để cho thấy sự nhiệt tâm nhiệt huyết
của ngài…Ngài trở thành tuyên úy của một viện điều dưỡng ở Haute-Savoie; năm
1938 lại được đề cử Bề trên các Sư huynh ở Dormans…
Nhưng có lẽ là một ngẫu nhiên tuyệt vời đưa
ngài trở lại Qui- nhơn…để rồi trụ lại vài ba tháng ở Hộ-Diêm…Sau đó là thời
gian nghĩa vụ quân sự với cấp bậc trung úy, ngài phục vụ cả ở Sài-gòn lẫn
Cam-ranh…
Hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ngài dành trọn thời
gian cho công việc mục vụ ở Đà-nẵng…Suốt ba năm, ngài miệt mài công tác mục vụ
với vô vàn công việc phải lo và phải làm…Ngài bắt đầu sinh hoạt Thanh-Lao-Công
và là mẫu gương nhiệt tâm nhiệt huyết cho các thành viên trong Phong trào…Mọi
người lúc đó đều là thành viên của JOC – Phong Trào Thanh-Lao-Công…và đã rất
xúc động khi nghe tin ngài qua đời…Ngài có sức thu hút hiếm thấy và một lòng
nhiệt thành không gì có thể làm giảm bớt…Ngài có thói quen chỉn chu khi xuất hiện
trước mọi người ngay cả ở thời trước khi vào quân ngũ…Những sáng kiến của ngài
đôi khi làm cho các vị Bề trên có chút ngại ngần; vào thời đó, ngài đã tạo nên
cho mình khuôn mặt của một Cha xứ hơi có chút tiến bộ - dĩ nhiên không là cấp
tiến…Những cung cách cử hành Phụng vụ, việc trình bày Kinh Thánh qua các vở diễn
sống động, những tấm bìa nho nhỏ ghi chú các hộ gia đình Công giáo hay các việc
trong Giáo xứ đều là những việc của riêng ngài và liên tục buộc ngài phải cập
nhật…Người ta luôn thấy trong đầu óc ngài một điều gì đấy mới mẻ…Trọn đời mình,
ngài giữ cho mình niềm vui có những sáng kiến độc đáo, tuy nhiên ngài cũng sẵn
sàng vâng phục Bề trên và lắng nghe anh em, đồng thời những sáng kiến ấy hoàn
toàn chỉ có mục đích giới thiệu Chúa cho mọi người mà thôi…
Bởi vì nỗi niềm hứng khởi và lòng nhiệt thành ấy
là do một cuộc sống nội tâm sâu xa cũng như nỗi ưu tư phải luôn làm thật tốt mọi
việc hằng ngày vẫn ảnh hưởng đến các hoạt động của ngài…Cha Alexandre là con
người của bổn phận; ngài thường hay quên đi những dấu chỉ về sức khỏe bản thân;
không ngại ngần trước khó nhọc và luôn cố gắng cho đến những sức lực tận
cùng…Ngài không thích sống tiện nghi lắm và tuyệt đối không gắn bó với của cải
vật chất…
Vào mùa xuân năm 1944, ngài được bổ nhiệm Quản
xứ Giáo xứ Hộ Diêm – một Giáo xứ quan trọng ở thời đó…Và sau đó là Đà-nẵng với
một nhiệm vụ khác; ngài nhập cuộc rất mau với những dấu ấn rất ư Alexandre – rất
ư Cố Trí…Dĩ nhiên là thử thách không bao giờ thiếu đối với ngài…Thậm chí có những
thử thách đe dọa cả mạng sống nữa…Đấy là thời điểm tháng giêng năm 1945 khi một
chiếc máy bay của Mỹ - vì muốn ngăn chận người Nhật – nên đã quyết định thả hai
quả bom xuống Ga Xe Lửa gần Tháp Chàm, nhưng một quả đã rơi lạc xuống Nhà Xứ Hộ-Diêm…và
biến Nhà Xứ thành một đống gạch đá đồng thời chôn vùi Cha Alexandre dưới đó…Người
ta đã đưa ngài ra, và ngài thấy rất khó chịu…Có vẻ như không bao giờ ngài quên
được giây phút đó !!!
Tháng 11 năm 1945, ngài vào Sài-gòn làm Phó xứ ở
Giáo xứ Chính Tòa kiêm tuyên úy Trại Giam…Sau đó , ngài quay lại Giáo xứ Hộ-diêm
để làm việc thêm hai năm nữa – đấy là một thời gian khá là khó khăn, thế nhưng
ngài vẫn có thể lưu lại một dấu ấn tuyệt vời. Người ta vẫn còn nhắc lại câu
chuyện về cái “sà-lúp” được Bucéphale kéo – đấy là một chiếc xe cũ kỹ Bucéphale
sửa lại theo ý của anh ta…Một ngày nọ, anh ta lao xe xuống một cái hố, bởi
Bucéphale bị hư một mắt !!! Vậy là Cha Alexandre triệu tập toàn bộ số ngựa
trong làng – ngày xưa làng Hộ-diêm có rất nhiều xe ngựa…Tất cả làm thành một đội
kỵ binh…để đến kéo người anh em của mình ra khỏi hố…Bản thân ông thiếu tá bị nạn
cũng vô cùng ngạc nhiên đứng trước đội kỵ binh tự phát này…
Mùa hè năm 1948 người ta lại thấy ngài ở Đà-nẵng
vài ba tháng… Nhưng rồi sức khỏe không cho phép, ngài lại phải lên đường quay
trở lại quê hương Nước Pháp của mình…Ngài bình phục dần dần, và vào cuối năm
1949, ngài ở Montbeton với tư cách là trợ tá Bề trên, đồng thời tình nguyện để
phục vụ cho các vị thừa sai bệnh tật…Một năm sau, ngài lảm Cha xứ của một Giáo
xứ trong Giáo phận Blois, rồi đảm nhận vai trò tuyên úy của một viện điều dưỡng
ở Saône-et-Loire…
Và lại một lần nữa, ngài cập bến ở Nha Trang
vào Lễ Giáng Sinh năm 1953, và ba năm cuối đời ngài dành cho công việc mục vụ
phục vụ các Sư Huynh Dòng Thánh Giuse và Các chị Mến Thánh Giá. Vẫn với lòng
nhiệt huyết mãnh liệt và giọng nói tiếng Việt ngày một rành rọt hơn, ngài chăm
chút khá kỹ những bài giảng hằng ngày. Thế nhưng rồi tình hình sức khỏe ngày
càng bấp bênh, ngài thấy gần như kiệt lực vào thời điểm đầu năm 1957…nên lại phải
trở lại Pháp lần thứ ba…
Ngài nghỉ ngơi ở Beaugrand… Năm 1960, cảm thấy
khỏe khoắn hơn, ngài đảm nhận vai trò tuyên úy ở Lộ-Đức. Lòng yêu mến Chúa và
tha nhân thúc bách, ngài thường xuyên ngồi tòa cho các hối nhân trong giáo xứ
cũng như tại Trung tâm Lộ-Đức…Và ngài vĩnh viễn yên nghỉ nơi vùng đất thánh
thiêng dành để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa này. Vào sáng sớm Lễ Phục Sinh năm 1961,
linh hồn trong sáng của vị Linh mục thừa sai đã bay lên trước Tòa Thiên Chúa để
hiệp ca Allelluia cùng triều thần thiên quốc và đón nhận phần thưởng Chúa đã hứa
cho người tôi trung hiền lương của Người.
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch