Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
Bài Viết Của
Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
Chuyện mỗi tuần – chuyện về tập sách “Dẫu vậy thì vẫn cứ tin”… Ngày đầu tiên: Những mẩu chuyện không đầu không đuôi…
Chuyện mỗi tuần – chuyện về tập sách “Dẫu vậy thì vẫn cứ tin” …
Chuyện mỗi tuần – về : Lời nói đầu của tác giả trong tác phẩm “Dẫu vậy thì vẫn cứ tin”…
Chuyện về tập sách “ Dẫu vậy thì vẫn cứ tin” – do Nhà Xuất Bản TempsPrésent in ấn…
Chuyện mỗi tuần – Phụng Vụ - nơi gặp gỡ Đức Kitô (tt) – Giáo Huấn Chúa Nhật số 18 – Tông Thư về Đào tạo Phụng vụ cho Dân Thiên Chúa số 12 (tt)…
Chuyện mỗi tuần – Phụng vụ - nơi gặp gỡ Đức Kitô (tt) – Tông thư số 12...
Chuyện mỗi tuần – chuyện về “Những Khao Khát của Thầy”…
Tản mạn ngày Giỗ Đầu của Huynh Trưởng Giuse Đỗ Bá Ái…
Chuyện mỗi tuần – chuyện về thừa sai Pierre, Auguste Gallioz – Cố Thiết ( 1882 – 1954)
Chuyễn mỗi tuần – chuyện về thừa sai Eugène Garnier – Cố Minh (1862 – 1952)
Chuyện mỗi tuần – chuyện về Thừa Sai Jean Gagnaire – Cố Định (1861 – 1931).
Chuyện mỗi tuần – chuyện về Linh Mục Thừa Sai Eugène DURAND (1864-1932)
Câu chuyện về lệnh truyền của Chúa dành cho các môn đệ trước khi các ông lên đường rao giảng…
Chuyện mỗi tuần – Lời “giải oan” cho chị Mác-ta…
Chuyện về Nhà Truyền Giáo Dorgeville – Cố Sĩ (1881 – 1967)
Chuyện về các Thừa Sai MEP - Cha Roger Delsuc – Cố Sáng – 1927 – 1974
Chuyện mỗi tuần – chuyện về người quét sân…
Chuyện mỗi tuần – chuyện về các Thừa Sai MEP - Cha Gaston DEGAS – 1880 - 1907
Chuyện về các Thừa Sai MEP - Cha Claude Charmot – 1922-1982 (tiếp theo)
Chuyện về các Thừa Sai MEP - Cha Claude – Émile – Marie Charmot…
Câu chuyện về Cha Victor Caillon (1906- 1983) – tiếp theo
Chuyện mỗi tuần – Chuyện về các Thừa Sai MEP
Chuyện mỗi tuần – chuyện về các Thừa Sai – MEP - Cha Cyprien-Théophile Brugidou (1887 – 1962)
Chuyện mỗi tuần – chuyện về các thừa sai MEP Cha BÉLIARD Donatien – Cố Phước (1913 – 1974)
Chuyện mỗi tuần – Chuyện về các Thừa sai MEP (Cha Alexis BOIVIN – Cố Nhã (1870 – 1923))
Chuyện mỗi tuần – Chuyện về các Thừa sai MEP (tiếp theo)
Chuyện mỗi tuần – Chuyện về các Thừa Sai MEP (tiếp theo)
Chuyện mỗi tuần – chuyện về các Thừa sai MEP (tiếp theo)
Chuyện mỗi tuần – Chuyện về các nhà Truyền Giáo - Thừa sai Paris
Chuyện mỗi tuần – câu chuyện về các nhà truyền giáo của Hội Thừa Sai – Paris…
Chuyện mỗi tuần – Chuyến hành hương viếng Mẹ…
Huấn giáo của Đức Thánh Cha Phanxicô sau chuyến Tông Du Hungary trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư ngày 3 – 5 – 2023 tại Quảng trường Thánh Phê-rô…
Bài giáo lý XII của Đức Thánh Cha Phanxicô với đề tài : Các đan sĩ là sức mạnh vô hình hổ trợ Giáo Hội và việc truyền giáo trong Giáo Hội…
Bài giáo lý XI của Đức Thánh Cha trong loạt bài về lòng nhiệt thành truyền giáo…Và chủ đề tuần này là : Người Ki-tô hữu hãy sẵn sàng để làm chứng cho Đức Kitô…
Bài giáo lý X của Đức Thánh Cha Phanxicô trong loạt bài trình bày về lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng – niềm đam mê loan báo Tin Mừng…
Bài giáo lý IX trong loạt bài về “Lòng say mê loan báo Tin Mừng – Lòng nhiệt thành Tông Đồ” với chủ đề “Trở thành Kitô hữu không nhờ trang điểm nhưng nhờ Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn”…
Bài giáo lý VIII của Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày trong buổi tiếp kiến chung thứ tư ngày 22 – 3 – 2023 với chủ đề: “Cách thế đầu tiên để loan báo Tin Mừng là làm chứng tá”…
Bài VII trong loạt bài giáo lý về Lòng say mê loan báo Tin Mừng – Lòng nhiệt thành Tông Đồ…Bài giáo lý tuần này có chủ đề: Là Tông Đồ trong một Giáo Hội tông truyền
Bài VI trong loạt bài giáo lý của Đức Thánh Cha về lòng say mê loan báo Tin Mừng – lòng nhiệt thành Tông Đồ
Chuyện mỗi tuần - Huấn dụ của Đức Thánh Cha : Phúc Âm không phải là “một đảng phái chính trị, một ý thức hệ, một câu lạc bộ”…
CHUYỆN MỖI TUẦN – CHUYỆN VỀ TẬP SÁCH “DẪU VẬY THÌ VẪN CỨ TIN” …

 

             KHÚC DẠO ĐẦU

 

Cha đã nói rằng con người luôn luôn tin vào các vị thần. Vậy thì cha có thể xác dịnh rõ hơn xem cuối cùng thì con người – ngay từ đầu – đã muốn nói gì khi dùng từ ngữ “Thiên Chúa” ?

Tôi nghĩ rằng không bao giờ người ta có thể biết rõ về chuyện ấy đâu, nhất là khi người ta đã trải dài câu hỏi này qua hàng nghìn năm ! Thiên Chúa, đấy là “thế - giới - ở -phía -bên – kia” mà chúng ta không thể vươn tới được; Thiên Chúa, đấy là Đấng chất vấn chúng ta. Khi người ta kiếm tìm nguồn gốc của tư tưởng về Thiên Chúa, người ta không thấy cái cội rễ gốc gác ấy ở đâu cả, nhưng người ta thấy các tôn giáo đã có đấy rồi, đã được bày biện ra đấy rồi, hay nói cách khác đơn thuần là những sự thờ cúng dành cho các vị thần…mà không có vấn đề thần học hay sự nhận biết một cách lý trí về Thiên Chúa trong các tôn giáo. Rất có thể những tôn giáo ấy mang tính cách bộ tộc, cũng giống như trong văn hóa Vệ-đà, hoặc có thể đã được chính trị hóa như trong các đế quốc lớn hay những triều đại miền Lưỡng Hà, Assyri hay Ai cập. Người ta đã có thể tìm thấy thần minh ở mọi nơi. Ngay từ khi con người đã có thể tự ý thức về chính mình thì họ đã tìm thấy thần minh ở ngay chung quanh họ. Con người đã nghĩ gì  trong ý niệm của mình về thần minh ? Theo tôi thì chắc chắn là họ đã nhìn thấy sự nhân cách hóa năng lực của cuộc sống trong vũ trụ và nơi chính bản thân họ. Chắc chắn là một thứ gì đấy tương tự như vậy. 

Điều mà những chuyện như vậy muốn chúng hiểu là con người luôn luôn bị khuynh loát bởi một ước muốn về tính khác biệt. Và điều ấy cũng làm nên sự cách biệt giữa con người và các loài động vật khác, đồng thời cũng giúp cho con người ý thức về bản chất đặc thù cũng như phẩm giá của mình. Và với cái ý tưởng vô cùng lớn về một sự hòa hợp với vũ trụ như thế: thần minh là những sức mạnh của thiên nhiên. Thần minh cũng là khởi nguồn của cảm tính xã hội : thứ tôn giáo vui vẻ hơn cả là việc thờ cúng vị thần gia đình – thần bếp…và chúng ta cũng biết rồi đấy, nghi thức thờ cúng ban đầu không hề có ý niệm gì về đền thờ lẫn các tư tế; đền thờ là căn bếp nơi nấu nướng để phục vụ cả nhà và tư tế chính là người chủ gia đình- chính ông thay mặt cho cả nhà để dâng lên vị thần gia đình lời tạ ơn về thực phẩm ông đã có được để nuôi sống gia đình ông. Vị thần này bảo vệ gia đình ông cũng như các gia đình bà con thân thuộc cần được bảo trợ…Và vị thần ấy vừa rất gần gũi – ngài ở ngay trong gia đình mình – đồng thời lại cũng vô củng cao cả - ngài bảo vệ gia đình bởi ngài làm chủ đời sống và những nguyên tố…Ở thủa ban đầu, người ta đã là như thế đấy : có một mối tương quan thực sự giữa Thiên Chúa và con người, con người và thiên nhiên, thiên nhiên và Thiên Chúa. Và người ta đợi trông gì nơi các thần minh ? Dĩ nhiên là người ta mong ước các thần minh tiếp tục để kéo dài thêm sự sống; thần minh được coi như suối nguồn sự sống và luôn luôn hòa hợp với vũ trụ…Thần minh và vũ trụ không bao giờ tách biệt…

Và kế đến là thời điểm người ta nhận ra rằng tôn giáo cũng gắn liền với những nghi lễ cúng tế người chết…Chúng ta cứ nhìn vào các ý tưởng dành cho một đám tang mà xem: chung chung người ta an táng người qua đời ngay cạnh nhà mình…với của ăn thức uống đi kèm, bởi người ta cho rằng người chết…vẫn còn đang sống – dĩ nhiên là hiểu theo ý nghĩa anh ta vẫn còn một mối ràng buộc nào đó với bộ tộc của mình trong chiều kích đời sống tập thể luôn luôn trong trạng thái “luân hồi” từ thế hệ này đến thế hệ khác…với sự hứa hẹn về sự hồi sinh đối với người qua đời…Cho nên luôn luôn có một sự sống, một cộng đồng sự sống, một sự sống liên tục nối tiếp giữa những người đang sống và những người đã qua đời – những người qua đời vắng mặt nhưng không bị tách biệt khỏi đời sống của những người thân thương còn sống của mình. Chính qua tư tưởng về giòng sinh lực vô tận của đời sống con người ấy mà  con người nảy sinh ý nghĩ về một phận số vô tận, được chi phối bởi một Quyền Lực tối thượng luôn điều khiển vũ trụ và gìn giữ sự sống nơi họ - một cảm nhận dần dần được định hình qua triết học hy lạp…cho đến tư tưởng về một sự thâm tình giữa con người và Thiên Chúa…Và như thế chúng ta thấy ý thức của con người  dần dần trở nên tinh tế hơn cùng với ý thức về thần minh…

Hai yếu tố đặc biệt làm con lưu ý hơn, và con không biết là có thể có một liên hệ nào đấy giữa hai yếu tố ấy với sự “sút giảm” về sự có mặt của Thiên Chúa giữa con người, nghĩa là về đức tin…Thế giới đang ở trong một tình trạng đô thị hóa liên tục – và chính sự kiện bùng nổ của các đô thị lần đầu tiên trong lịch sử con người…vào khoảng thời gian từ năm 2008 – và không biết là có không một mối liên hệ giữa sự sút giảm của thiên nhiên và sự sút giảm về cái chiều kích linh thánh thiên nhiên mang lại hay không. Dĩ nhiên là có phần tiến triển của các bộ môn khoa học…Thế nhưng tại đấy có lẽ cũng có một yếu tố nào đó mà chúng ta có thể vay mượn ý tưởng của nhà thần học Dietrich Bonoeffer khi ông nói đến Thiên Chúa như một hình thức “ lấp chỗ trống” vậy : đã từ rất lâu rồi, chuyện thần thánh được đề cập đến như là để bổ sung cho những suy yếu tri thức của chúng ta, những nỗi hãi sợ cũng như điều gì đấy chúng ta còn chưa hiểu…Và khi mà sự mù tối này không còn nữa cùng với hiện tượng phát triển của các bộ môn khoa học…thì vấn đề thần thánh – vốn được nêu lên nhằm mục đích giái quyết khoảng không gian tối tăm và huyền nhiệm ấy – cũng buộc phải rút lui luôn, phải lặng chìm…

Điều mà bạn cần phải lưu ý, đấy là khoa học không hề cho thấy một sự lý luận nào khác ngoài niềm tin rằng những huyền thuyết cũng đã từng là các bộ môn khoa học của con người ! Những huyền thuyết vốn đã là những nỗ lực khoa học để hiểu về vũ trụ. Chẳng hạn như tường thuật về công cuộc tạo dựng trong sách Khởi Nguyên…vốn là một bản phác họa lại những tường thuật trong nền văn hóa Babylon : đây là một cố gắng để có thể hiểu “một cách khoa học” về nguồn gốc của vũ trụ, của trái đất, của các giống loài thực vật và động vật, và cuối cùng là của con người…Cái khoa học ấy – không ngừng tiến triển  -  nhưng  thực sự nó đã có thể thoát khỏi ý tưởng về Thiên Chúa chưa ?  Dĩ nhiên người ta có thể giả thiết như đã thoát khỏi rồi. Tuy vậy người ta vẫn không thể không tự vấn chính mình rằng : “ Thế thì sẽ còn lại gì từ con người và ý tưởng về con người sau giai đoạn ấy ?” Đấy là nỗi hãi sợ của Husserl khi ông ta thấy những bộ môn khoa học tự nhiên xâm lấn các bộ môn khoa học tinh thần : người ta đi đến chỗ giúp bạn khám phá ra ở đâu đó trong khối óc cái tế bào thần kinh cảm ứng – neuron – cho thấy ý tưởng về cội gốc củaThiên Chúa ! Tuyệt ! Thế nhưng lúc đó con người sẽ trở nên thứ gì ? Chúng ta phải nêu lên câu hỏi ấy, và có rất nhiều lý do để nêu lên câu hỏi ấy khi chúng ta chứng kiến sự tiến triển hôm nay của nhân loại. Thật ra thì tôi không hề có ý muốn áp đặt một sự đe dọa mang tính biện giải như người ta đã từng được nghe ngay cả trong những văn bản chính thức của Giáo Hội cho rằng : “ Khi giết chết Thiên  Chúa,người ta giết chết luôn cả con người !” Tôi không hề muốn loại trừ những tiến bộ của khoa học, kể cả chuyện tục hóa…khi đưa ra mối đe dọa  này và quả quyết rằng ý niệm về Thiên Chúa là lá chắn duy nhất chống lại sự leo thang của chủ nghĩa tàn bạo…Tuy nhiên phải tính toán xem nhân loại đã phát triển tôi không biết là qua bao nhiêu thiên niên kỷ trong khi vẫn  duy trì ý niệm về Thiên Chúa ! Có lẽ cũng là điều tốt khi người ta có thể cởi bỏ cái ý niệm về Thiên Chúa đi…nhưng cũng có thể con người sẽ tốt hơn nếu vẫn cứ giữ  khái niệm về Thiên Chúa nhưng được khai triển một cách khác đi, và như thế sẽ không còn bất cứ đe dọa nào nữa đối với con người.

Và tôi cho rằng người Kitô hữu – bao gồm cả nhà thần học Công giáo – lúc này phải chất vấn về đức tin của mình bắt đầu từ sự tiến triển đang xảy ra. Đồng thời tôi cũng nghĩ rằng họ phải cố gắng để giữ đức tin của mình một cách khác – nghĩa là giữ đức tin của mình không phải để cứu vớt Đạo hay cơ chế gắn liền với Đạo, nhưng là để cứu vớt một ý tưởng nào đó về con người mà ý tưởng về Thiên Chúa chính là sự bảo đảm cho ý tưởng về con người ấy – sự bảo đảm, vâng, sự bảo đảm…Tôi dùng từ “bảo đảm” này  vì có ý nhắm nói đến sự tương tự - mà Benveniste đã phân tích – giữa hai từ “tin” và “đức tin”…với  người bảo đảm, sự bảo dảm, sự chắc chắn có thể  lấy lại được điều người ta đã hoàn toàn phó thác cho một ai đó “rất đáng tin cậy”…

 

Và thưa cha – đâu là cái mức độ giữa tư tưởng về Thiên Chúa thực sự là sự bảo đảm cho tư tưởng của con người ?

Bởi vì đấy là ý tưởng về một phận số vô cùng vô tận - ý tưởng làm cho con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Thử đọc lại câu nói của Levinas dùng để tóm tắt Bộ Kinh Thánh mà xem : “Ngươi có bổn phận  đối với tha nhân”! Theo tôi nghĩ, đấy là một tư tưởng rất Kitô giáo, mặc dù được viết ra từ một người Do Thái. Một tư tưởng rất mạnh, phải không ? Và con người mà chúng ta đã từng biết đến…chính là kẻ bị ám ảnh bời câu nói đó : ngươi có bổn phận đối với tha nhân ! Tại sao tôi phải quan tâm đến người nghèo, người không nơi cư trú nhất định ? Tại sao ?

Cái tư tường về một tính khác biệt vừa ở trong phẩm cách của tha nhân vừa ở trong tư thế tôi cảm nhận mình được mời gọi đi đến một tương lai khác : đấy là đức tin ! Và cuối cùng thì đâu là sự chống đỡ cho đức tin ? Sự mạc khải, vâng – sự mạc khải…Và có lẽ cũng có cả cái cảm xúc khá mạnh bắt buộc tôi phải giải cứu trần gian, giải cứu ý tưởng về con người…khi tìm cách để giải cứu chính đức tin của mình. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện sẽ xảy ra tương tự như thế…Với một lối đi đưa đến cái tổng thể vốn đã được các ngôn sứ loan báo. Sẽ rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta sống lại cái thảm kịch dân Israel xưa – thảm kich đã bày ra sự thần khải của họ !

“Bày ra – bịa ra”, đấy là một từ ngữ cần phải được suy nghĩ lại và hiểu theo một cách khác ! Nhưng cuối cùng, khi những nhà sử học cho chúng ta hay rằng những tường thuật trong năm cuốn sách Kinh Thánh được gọi là Sách Ngũ Thư đã được trước tác khá trễ tràng về sau này, sau cuộc hồi hương hậu lưu đày của dân tộc Giuđa, và là những tường thuật dựa trên nền tảng các huyền thoại, các ký ức và truyền thống, trong mục đích để tạo cho dân tộc ấy một lịch sử mà vốn nó không có, và người ta chẳng có chứng cứ gì về sự tồn tại của cả Abraham lẫn Môisen cả. Vậy thì mạc khải của Thiên Chúa cho Abraham và Môisen, chúng ta – Kitô hữu – làm sao chúng ta có thể tin được? Chúng ta tin được là bởi vì chính Đức Giêsu đã suy nghĩ  và quả quyết lại về chuyện của Abraham và Môisen – điều  đưa ra cho chúng ta thêm một vấn đề nữa – nhưng cuối cùng thì đấy là mạc khải của riêng Người, là hồi ức của chính Đức Giêsu. Làm sao  thần học gia có thể có một lối giải thích  khác cho ý tưởng về mạc khải – khi cho rằng cái ý tưởng ấy đã được bịa ra để xác minh cho gốc gác cội nguồn của dân tộc Do Thái? Tôi không biết. Nhưng với tôi – người Kitô hữu – cách rất đơn giản là tôi không thể an tâm với  một mạc khải được thể hiện cho một dân tộc không phải là dân tộc của tôi. Cuốn sách của tác giả Shlomo Sand về Sự hư cấu của dân Do Thái đưa ra nhũng vấn nạn cho một số  người Do Thái nào đó vốn tự coi là thành viên của Dân của Thiên Chúa. Nếu việc tưởng nhớ đến Abraham làm nên sự duy nhất của dân tộc này, thì với chúng ta – người Kitô hữu – chính sự tưởng nhớ đến Đức Giêsu – tôi nghĩ vậy – chính sự tưởng nhớ này cho phép chúng ta đón nhận truyền thống của người Israel như là mạc khải, nghĩa là như quá trình diễn tiến của Lời Thiên Chúa đến với Muôn Dân. Thế nhưng tại sao ta lại không thấy Lời ấy – lời mời gọi tiến dần đến sự văn minh hóa của con người – cũng là tiến dần đến qua các nghi thức dành để thờ phượng Thiên Chúa ở ngay từ buổi đầu của nhân loại nhỉ ?

 

Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch

 

Tác giả: Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!