Không thể yêu mến nếu không cậy trông. Tình yêu cần không gian để lớn lên và phát triển; đó là một điều kỳ diệu, nhưng rất mong manh theo một nghĩa nào đó. “Môi trường” đặc biệt mà đức mến cần để được hình thành là đức trông cậy. Nếu đức mến không phát triển hay trở nên lạnh lùng, thì rất thông thường, nó bị bóp nghẹt bởi những bận tâm, lo lắng, sợ hãi hay nhát đảm. Đức Giêsu nói với thánh Faustina, “Cản trở lớn nhất của sự thánh thiện là nhát đảm và sợ sệt”.[1]
Chúng ta được tạo dựng để yêu thương; dù ý thức hay không ý thức điều đó thì một trong những khát vọng sâu xa nhất của chúng ta vẫn là trao ban chính mình người khác. Một dụ ngôn Tin Mừng ví tình yêu lớn lên trong tâm hồn chúng ta như hạt lúa mì được gieo vãi, đâm chồi và tự mình lớn lên dù người nông dân thức hay ngủ.[2]Vậy mà tình yêu thường không lớn lên
được và sự phát triển của nó bị bóp nghẹt bởi những ích kỷ, tự kiêu, “những lo lắng thế sự và đam mê trần tục”[3]như Chúa Giêsu nói, hoặc do
những cản
trở khác. Rất thông thường, cội rễ của vấn đề là thiếu cậy trông.
Thiếu trông cậy, chúng ta không thực sự tin Thiên Chúa có thể làm chúng ta hạnh phúc và như thế, chúng ta xây dựng hạnh phúc của mình từ lòng thèm muốn và ham mê nhục dục. Không mỏi mong tìm kiếm sự sung mãn của đời mình trong Thiên Chúa và vì thế, chúng ta tự hình thành một bản tính nhân tạo dựa trên kiêu căng. Hoặc nữa - điều thông dụng nhất giữa những người có ý hướng ngay lành - chúng ta muốn yêu, quảng đại trong tình yêu, trao ban chính mình nhưng lại e sợ, do dự và lo lắng giữ lại. Việc thiếu niềm tin vào những gì ân sủng Chúa có thể làm trong đời sống chúng ta và những gì chúng ta có thể làm nhờ sự trợ giúp của Người dẫn đến một sự co rút cõi lòng, một đức mến thu nhỏ lại. Nhưng như thánh Têrêxa nói, “cậy trông dẫn đến yêu thương”.
Khi chúng ta đánh mất sự tha thiết, sự thú vị cũng như lòng quảng đại trong việc yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, thì thông thường, nguyên nhân của nó là do sự nhát đảm hay một loại thất vọng bí mật nào đó. Phương thuốc chữa lành là thắp lên lại niềm cậy trông của mình, tái khám phá một niềm tin mới vào những gì Thiên Chúa có thể làm chúng ta (dù chúng ta yếu đuối và suy đồi đến đâu) và những gì chúng ta có thể làm với sự trợ giúp của ơn Chúa.
“Nhát đảm huỷ hoại linh hồn”, Chân Phước Francis Mary Paul Libermann đã từng nói. Vì thế, phương thức chữa lành tốt nhất là khám phá cội rễ của sự nhát đảm và học lại cách nhìn vào khía cạnh đặc biệt đó của cuộc sống bằng đôi mắt của đức trông cậy.
Để ý chí trở nên mạnh mẽ và táo bạo, nó cần được khuấy động bởi lòng khát khao. Khát khao chỉ có thể mạnh mẽ nếu những gì đáng khao khát được coi là có thể tiếp cận và khả thi. Chúng ta không thể muốn điều gì đó cách hiệu quả nếu có cảm giác “mình sẽ không bao giờ làm được điều đó”. Khi ý chí trở nên yếu nhược, chúng ta phải xác định lại mục tiêu sao nó được coi là có thể đạt được. Cậy trông là nhân đức gây ảnh hưởng. Nhờ cậy trông, chúng ta biết mình có thể tin tưởng mong đợi mọi sự từ Thiên Chúa. “Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh tôi”,[4]thánh Phaolô nói.
Cậy trông làm đức mến có thể mở rộng và phát triển.
Nhưng để cậy trông trở thành một động lực thực sự trong đời sống, nó cần có một nền móng vững chắc, một đá tảng chân lý. Nền tảng vững chắc đó được thiết lập bởi đức tin, chúng ta có thể “hy vọng điều không thể hy vọng”[5]vì chúng ta “biết Đấng chúng ta tin”.[6]Đức tin giúp chúng ta bám
chắc vào chân lý mà Thánh Kinh truyền lại, chân lý về sự tốt lành, lòng nhân từ và sự tuyệt đối trung thành với lời hứa của Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu Do Thái nói, “Chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, được khuyến khích mạnh mẽ để nắm giữ niềm hy vọng dành chúng ta. Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường chúng ta”.[7]
Thánh Kinh thấy tình yêu tuyệt đối không điều kiện và không thể thu hồi mà Thiên Chúa dành con cái Người được biểu lộ nơi Đức Kitô, Đấng được sinh ra, chết và chỗi dậy vì chúng ta. Ngài “yêu tôi và hiến dâng mình vì tôi”.[8]Nhờ đức tin, tâm hồn chúng ta bám vào chân lý và tìm thấy trong đó
một niềm cậy trông vô biên và không thể huỷ hoại. “Cũng như niềm tín thác và tin tưởng, đức tin là mẹ của đức mến và đức cậy”.[9]
Thánh Faustina, Petit Journal, tr. 480. Catherine de Hueck Doherty, Poustinia: Christian Spirituality of the East for Western Man (Notre Dame, Ind.: Ave Maria Press, 1975); tái bản với tựa đề mới, Poustinia: Encouraging God in Silence, Solitude, and Prayer (Combermere, Ont.: Madonna House, 2000).