Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Jerome Nguyễn Văn Nội
Tủ Sách CGVN

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Bài Viết Của Jerome Nguyễn Văn Nội

NHỮNG NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM
Trong Lịch Phụng Vụ của Ro-ma thì Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được gọi là Lễ Kính Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo, vì Thánh An-rê Dũng Lạc đứng đầu danh sách 117 vị Tử Đạo được Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II phong Hiển Thánh ngày 29/06/1988. Mỗi lần nói/nhớ tới Thánh An-rê Dũng Lạc, tôi không thể không nhắc lại một kỷ niệm đẹp của chuyến viếng thăm Nhà Thờ Chính Tòa Los Angeles, CA (Hoa Kỳ), hè năm 2005. Nhà Thờ Chính Tòa Los Angeles có hai nét độc đáo mà tôi rất ngưỡng mộ: một là kiến trúc của Ngôi Nhà Thờ này xuất phát từ ý tưởng của ngôi nhà cộng đồng của thổ dân sinh sống ở vùng này trước khi Ki-tô giáo có mặt (kiểu nhà rồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên Việt Nam); hai là trên hai bức tường phía trong Nhà Thờ có tượng của một số Vị Thánh được chọn lọc bởi Giáo Hội địa phương, trong đó có tượng Thánh An-rê Dũng Lạc của Việt Nam. Khi nhìn thấy tượng Thánh An-rê Dũng Lạc đứng giữa tượng các Thánh khác, lòng tôi bồi hồi xúc động và cảm thấy vô cùng tự hào về cha ông của mình là các Vị Tiền Nhân đã kiên cường tuyên xưng Đức Tin dù có phải chết. Các ngài xứng danh là những người con ưu tú của Giáo Hội Việt Nam.

KHÔN THÌ SỐNG MÀ DẠI THÌ CHẾT
“Khôn thì sống mà dại thì chết”. Người đời thường nói thế. Nhưng thế nào là khôn, thế nào là dại thì lại là một vấn đề phức tạp và nhiêu khê, vì có nhiều tiêu chuẩn để xác định thế nào là khôn, thế nào là dại và cũng có nhiều cách đánh giá khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Là Ki-tô hữu, chúng ta xác định khôn dại theo Lời mạc khải của Thánh Kinh là quan điểm của Thiên Chúa, của Chúa Ki-tô. Ba bài Sách Thánh của Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm A hôm nay giúp chúng ta hiểu thế nào là khôn và thế nào là dại để chúng ta thực hành trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của người tín hũu.

ĐỪNG NÓI MÀ KHÔNG LÀM
Trong xã hội, một người chỉ có nói mà không làm là một người “ngôn hành bất nhất”, dĩ nhiên là không đáng tin cậy. Trong lãnh vực chính trị, các nhà lãnh đạo nói mà không làm là các nhà lãnh đạo lừa dân, gạt dân, mị dân, cho dân ăn bánh vẽ. Trong Giáo Hội các chức sắc và tín hữu nói mà không làm là những Pha-ri-sêu giả hình đáng ghét. Sứ điệp của Lời Chúa Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm A là LỜI NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM. 

HAI GIỚI RĂN THÀNH MỘT
 Từ Cựu Ước cho tới Tân Ước, Thiên Chúa chỉ muốn mạc khải cho con người biết Người là Tình Yêu. Vì là Tình Yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Vì là Tình Yêu nên Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa chỉ mong đợi một điều là loài người nhận ra:

* Người là Vị Thần Linh đáng được yêu mến trên hết mọi sự.

* Con người, vì đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, và đã được Con Thiên Chúa chết trên thập giá để cứu chuộc, nên đáng được đồng loại yêu thương như chính bản thân mình.

Cốt yếu của Đạo Mạc Khải là ở đó! Hai giới răn quan trọng nhất của Ki-tô giáo là mến Chúa và yêu người đã thành một.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Trong Đại Hội La Vang năm nay, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, đại diện (không thường trú) của Vatican tại Việt Nam, đã công khai và long trọng ngỏ lời  cùng các Xê-da Việt Nam, bằng chính ngôn từ của Đức Giê-su Ki-tô đã nói với những người Pha-ri-sêu làm tay sai cho đế quốc Ro-ma vào những năm 30 sau CN: “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa" (Mt 28,18-20).  

TRANG PHỤC CỦA KHÁCH DỰ TIỆC CƯỚI
Để mạc khải về Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn và nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống của người Do-thái. Hai dụ ngôn và hình ảnh được Chúa Giê-su ưa dùng nhất là Vườn Nho và Tiệc Cưới.

LÀM CON THẢO CỦA CHA TRÊN TRỜI
 Văn hóa Á Đông giúp các Ki-tô hữu Á Đông hiểu giáo huấn của Đạo Chúa một cách dễ dàng hơn vì truyền thống Á Đông và Giáo Lý Công Giáo đều rất coi trọng những giá trị của Gia Đình, nhất là sự hiếu thảo của con cái đối với ông bà cha mẹ. Trong gia đình Việt Nam, người con hiếu thảo là người con biết nghe lời ông bà cha mẹ mà kính trên nhường dưới, sống thuận hòa với người trong gia đình và thân ái với người xung quanh cũng như hữu ích cho xã hội cộng đồng.

HÃY LÀM CHO VƯỜN NHO SINH TRÁI NGỌT!
Để mạc khải Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa cho loài người, Chúa Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn và nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống nông nghiệp của người Do-thái thời kỳ đầu Công Nguyên. Trong các dụ ngôn và hình ảnh được Chúa Giê-su vận dụng thì Vườn Nho là dụ ngôn và hình ảnh được Chúa dùng nhiều nhất.

NỮ TỲ CỦA THIÊN CHÚA
Trong Cựu Ước không có nhân vật nào có thể so sánh được với ông Mô-sê. Thế mà Danh xưng đẹp nhất, xứng hợp nhất của ông là TÔI TỚ CỦA THIÊN CHÚA. Trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, ngoài Chúa Giê-su, thì không có nhân vật nào đáng kính, đáng trọng, đáng mến cho bằng Đức Ma-ri-a. Thế mà Danh xưng đẹp nhất, xứng hợp nhất của Mẹ là NỮ TỲ CỦA THIÊN CHÚA. (Theo ngôn ngữ của báo chí bình dân ngày nay, Đức Ma-ri-a là Ô-SIN của Thiên Chúa)

HÃY VÀO LÀM TRONG VƯỜN NHO
Cây nho, vuờn nho là những thực tại rất gần gũi, thân thiết với dân Ít-ra-en xưa. Vì thế mà cây nho, vườn nho, ông chủ vườn nho và thợ làm vườn nho được nhắc đến nhiều lần trong Thánh Kinh Hí-pri (hay Do-thái giáo) và Ki-tô giáo. Theo quan điểm của Thánh Kinh Ki-tô giáo, thế giới này là vườn nho của Thiên Chúa, một vườn nho khổng lồ, mà mọi người lớn/bé, già/trẻ, nam/nữ, tài ba/vụng về, trí thức/ ít học, giầu/nghèo, lương/giáo... đều được Thiên Chúa là Chủ vườn nho mời vào làm việc trong vườn nho ấy.  

THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA
Trong con mắt đức tin, cộng đoàn (gia đình, giáo xứ, giáo hội, xã hội) không chỉ có tương quan chiều dọc là quan trọng mà tương quan chiều ngang cũng rất quan trọng. Tương quan chiều dọc là tương quan của mỗi người với Thiên Chúa. Còn tương quan chiều ngang là tương quan giữa người với người. Một trong những đặc điểm của tưong quan chiều ngang là việc sửa lỗi cho nhau, giúp nhau nên hoàn hảo và việc hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện (Phúc Âm Chúa Nhật 23 Thường Niên A). Một đặc điểm khác của tương quan chiều ngang là sự tha thứ cho nhau   (Phúc âm Chúa Nhật 24 Thường Niên A)

LÊN TIẾNG HAY KHÔNG LÊN TIẾNG?
 Xin nói ngay rằng: đây không phải là bài tham luận về việc Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải lên tiếng hay không phải lên tiếng trước những điều tội tệ trong xã hội hiện nay. Lên tiếng hay không lên tiếng được nêu ra ở đây chỉ liên quan tới trách nhiệm của các thành phần Dân Chúa phải xây dựng cho nhau, phải nhắc bảo nhau sống cho đúng với tư cách và chức danh Ki-tô hữu là giáo dân hay là giáo sĩ. Sấm ngôn của Thiên Chúa trong Sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en và những chỉ thị của Chúa Giê-su trong bài Phúc âm hôm nay quả quyết là chúng ta phải lên tiếng nhằm sửa lỗi anh em trong cộng đoàn để mọi người sống đạo đức thánh thiện và tránh gương mù gương xấu cho người khác. Trong cách sống của người công giáo Việt Nam, có một rào cản về mặt văn hóa, mà có người gọi một cách văn hoa là “nền văn hóa nể trọng”. Đó là sự/tính cả nể sợ mất lòng người khác, nhất là làm mất lòng những người có chức có quyền, khiến nhiều người không dám/muốn nói lời thật (lời thật mất lòng) với anh chị em mình lỡ sai phạm và trở thành đồng lõa với cái sai, cái xấu của những người ấy. Vậy thì chúng ta cần nghe lại Lời Chúa mà suy gẫm và đem ra thực hành.

BÀI HỌC VỠ LÒNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU
Bài giáo lý cơ bản và sơ đẳng nhất của các Sách Phúc âm là nhận biết Chúa Giê-su là Ai và muốn đi theo Người thì phải đi con đường nào? Lời tuyên tín của Phê-rô "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" trong bài Phúc Âm tuần trước (Mt 16,16) là câu trả lời cho vế thứ nhất. Những lời công bố của Chúa Giê-su “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” trong bài Phúc âm hôm nay (Mt 16,24) là lời giải đáp cho vế thứ hai. Con đường từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo Chúa Giê-su chính là bài học vỡ lòng của các môn đệ Chúa Giê-su là các Ki-tô hữu. Bài học thật dễ hiểu nhưng không dễ thực hành chút nào, vì đi ngược với xu hướng tự nhiên của con người là muốn có thêm chứ không muốn mất đi, là thích hưởng thụ chứ không thích hy sinh từ bỏ!      

HÃY TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA CHÚA: “CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?”
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giê-su đã hỏi các môn đệ hai câu. Câu thứ nhất là "Người ta nói Con Người là ai?" và câu thứ hai là Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi thứ nhất dẫn tới câu hỏi thứ hai là câu hỏi quan trọng hơn và là câu hỏi quyết định. Đức Giê-su chờ câu trả lời chính xác của các môn đệ. Ông Phê-rô, được ơn mạc khải từ Thiên Chúa Cha, đã trả lời chính xác: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!" 

“BÀ MUỐN SAO THÌ SẼ ĐƯỢC VẬY”
Không phải người có đạo nào cũng có cái nhìn đúng về những người mà họ gọi là những người không có đạo. Điều khác biệt cơ bản nhất giữa những người có đạo và những người không có đạo chính là lòng tin. Thế mà trong Phúc Âm không ít lần Chúa Giê-su đã đề cao lòng tin của những người không thuộc Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa. Trong xã hội ngày nay cũng không thiếu những người lương dân (hay ngoại đạo) có đời sống tốt lành hơn các tín hữu.

CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ
Trong bất cứ xã hội, quốc gia nào cũng có những người không biết sợ là gì, dù là nghèo đói, vất vả, đòn roi, ngục tù, thậm chí cả cái chết. Họ quả là những con người dũng cảm, đáng kính phục. Trong khi đó, đại đa số con người ta thường bị cái sợ chế ngự cả tâm trí lẫn hành vi. Có người sợ đói, sợ rét. Có người sợ bệnh tật và tuổi già. Có người sợ mất của cải, địa vị, chức quyền. Có người sợ tù tội, giam cầm. Có người sợ ma, sợ quỉ là các thế lực vô hình độc ác.

CHÂN DUNG ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ
Nhóm Mười Hai (Tông Đồ) theo Đức Giê-su từ làng này sang làng khác, đã có được những phút giây tuyệt vời khi chứng kiến những phép lạ Người làm để chữa bệnh, trừ quỷ, dẹp yên sóng gió. “Ông Giê-su này là ai?” mà ma quỷ phải đầu hàng, thiên nhiên phải khuất phục, bênh tật phải tan biến? Một mơ uớc chính đáng cúa các Tông Đồ là thấy được chân dung đích thực của Thầy Giê-su. Mười Hai ông cùng mơ ước nhưng chỉ có 3 ông được toại nguyện. Đó là các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê: Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.”

NGƯỜI KHÔN NGOAN BIẾT CHỌN ĐÚNG
Người đời có câu: “Khôn thì sống, dại thì chết” Đó là đúc kết kinh nghiệm sống  của loài người, không chỉ trong lãnh vực trần thế mà cả trong lãnh vực tâm linh nữa. Người khôn là người biết định giá (hay lượng giá) đúng. Người khôn là người biết chọn lựa đúng. Điển hình là người đi tìm ngọc đẹp và thương gia tìm thấy kho báu. Hai người ấy bán hết tài sản họ đang có để mua cho được viên ngọc quý hay thửa ruộng trong đó có chôn giấu kho báu, vì họ định giá đúng về viên ngọc quý hay kho báu vừa tìm thầy.

KẺ XẤU SỐNG BÊN CẠNH NGƯỜI TỐT - HAY CỎ LÙNG MỌC CHUNG VỚI LÚA
Trong Tin Mừng Mát-thêu có 5 bài giảng: (a) bài giảng trên núi, (b) bài giảng về sứ mạng truyền giáo, (c) bài giảng về Giáo hội, (d) bài giảng về các dụ ngôn và (đ) bài giảng về cánh chung. Trong bài giảng về các dụ ngôn, Chúa Giê-su đã dùng 6 dụ ngôn để nói về Nước Trời: (a) dụ ngôn người gieo giống, (b) dụ ngôn cỏ lùng, (c) dụ ngôn hạt cải, (d) dụ ngôn men trong bột, (đ) dụ ngôn kho báu và ngọc quý và (e) dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển. Mỗi dụ ngôn có ý nghĩa riêng và mang một sứ điệp riêng.

GIEO KHẮP BỐN PHƯƠNG TRỜI
 Trên bìa cuốn Tự điển Bách khoa Larousse nổi tiếng, chúng ta đọc thấy phương châm này: “On sème à tout vent.” Có thể tạm dịch là: “Gieo khắp bốn phương trời.” Phương châm này giúp chúng ta liên tưởng đến dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng Mát-thêu: “Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục." 

[1] 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 [21/33]

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!