CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN C
(2Mcb 7:1-2, 9-14; 2Tx 2:16-3:5; Lc 20:27-38/20:27-34-38)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Niềm Tin Kito giáo về việc xác loài người ngày sau sống lại đã gặp hiểu lầm và chống đối ngay từ những ngày đầu. Chuyện sống lại là vấn đề sinh tử không riêng gì đối với niềm tin Kito giáo mà còn đối với tất cả mọi người từng suy tư về sự sống và sự chết.
THIẾU TINH THẦN HỌC HỎI
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 20:27-38), chúng ta gặp người Sa-Đốc là một phe nhóm nằm trong Do Thái Giáo. Họ thuộc lớp người tư tế; phần lớn là những tay giàu có, bảo thủ, theo học thuyết Aristotle duy vật. Kinh Thánh của họ chỉ gồm những sách của Maisen. Đối với họ, không một giảng huấn nào có giá trị nếu không thấy trong Pentateuch và họ cũng không thấy có giáo lý nào nói về sự sống lại trong các sách của Maisen.
Những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Jerusalem và những đại diện của họ đều chủ tâm hợp tác với người La Mã để kết tội chúa Giesu và làm mất uy tín của Người. Giọng điệu của họ là hoạnh họe, bắt bẻ, làm rối loạn và đẩy Chúa Giesu vào trường phái tư duy với chủ đích chia rẽ những khán thính giả của Chúa. Họ là những người thiếu tinh thần học hỏi và sưu tầm. Họ đơn giản chỉ muốn chọc tức, gài bẫy chúa Giesu bằng những câu hỏi cổ điển mà họ đã có sẵn trong đầu từ lâu rồi là “Không có chuyện xác người ta sống lại sau khi chết” (c.27;Cv 23:8).
TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI
Trái lại, những người biệt phái và những người cùng thời với Chúa đều đã hy vọng sẽ sống lại. Họ không chỉ là những tiên tri, không chỉ dựa vào những bản văn trong kinh thánh mà còn tin vào cả những lời truyền khẩu từ Maisen. Căn bản của niềm tin của họ về sự sống lại là những lời truyền khẩu đó. Đề tài này được hâm nóng tranh luận giữa hai phe Biệt Phái và Sa-Đốc là một sự kiện mà Phaolo đã dùng để gây phân tán, làm náo loạn trong Thượng Hội Đồng Do Thái lúc đương xét sử ngài để ngài thoát chết. (Cv 23:6-10)
Những người Sa Đốc không tin có sự sống lại. Câu hỏi của họ trong bài Phúc Âm hôm nay dựa trên hôn phối luật Levi được chép trong sách Thứ Luật 25: 5-10, nói rõ bổn phận của người em đối với người anh đã chết. Đám người Sa-Đốc đã kỳ cục hóa tư tưởng về sự sống lại. Chúa Giesu đã phản kháng sự hiểu biết sơ đẳng và ấu trĩ của họ (c 35-36), đồng thời đưa ra biện chứng dựa trên sự sống lại của những người chết theo như luật có ghi chép đàng hoàng (c 37-38) mà những người Sa-Đốc đã chấp nhận.
Câu trả lời của chúa Giesu gồm 2 phần. Phần đầu (c 34-36) đã lột tẩy câu hỏi không thích hợp đó, bởi lẽ đời sống ở trần thế khác với đời sống mai sau khi người ta đã chết. Ở trần gian, hôn phối và cuộc sống là chính nhưng tử thần đã kết thúc nó rồi. Tuy nhiên, ở đời sau không có sự chết, và những người sống lại thì giống như những thiên thần, họ là con Thiên Chúa thì làm gì có chuyện vợ chồng nữa. Trong phần trả lời sau, chúa Giesu dựa vào chính Kinh Thánh của người Sa-Đốc là sách Maisen (c 37-40) qua sách xuất hành 3: 6, Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, không phải của kẻ chết.
Cả hai phần trả lời của chúa Giesu tạo thành một biện chứng dựa vào lý trí (nghĩa là điều kiện của đời sống trần gian không thể làm bằng cớ cho điều kiện của đời sống mai sau) và Kinh Thánh (Xh 3:6) để xác quyết rằng người chết sống lại. Dựa vào niềm tin này, chúa Giesu đã đồng ý với phe Biệt Phái. Biện chứng này phải đặt trên sự phục sinh khải hoàn của chúa Giesu, không phải trên giáo lý về sự sống lại theo nghĩa chung có tính tổng quát.
LÀM QUEN VÀ THỰC SỰ HIỂU BIẾT
Vào thời chúa Giesu, những người biệt phái Pharisieu và người Sa-Đốc quen biết chúa Giesu rất hời hợt; họ đã học hỏi giáo huấn của Người và biết nhiều chi tiết về người, nhưng họ không biết Người đúng nghĩa Người là Sự Thật. Các thành viên của phe họ cũng biết Người, nhưng chỉ bề ngoài. Họ biết nhiều điều về Người nhưng không thực sự biết về Người.
Về một phương diện khác, 12 tông đồ, ít ra cũng hiểu biết một cách cụ thể và họ bắt đầu khám phá Chúa Giesu là ai. Sự hiểu biết khác nhau như vậy vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Có nhiều người biết khá nhiều chi tiết về chúa Giesu, nhưng chưa bao giờ thực sự biết và yêu mến Người. Nhiều người như vậy đã từng nghiên cứu thần học! Trái lại, cũng có nhiều người đơn sơ, không nghiên cứu, chẳng hiểu biết chi tiết nhiều về người nhưng lại biết về sự thật và vẻ đẹp huy hoàng của người đầy đủ và trọn vẹn.
TẶNG VẬT VÀ MÀU NHIỆM
Mục đích tự nhiên của hôn nhân là sinh con cái. Nó bảo đảm cho sự liên tục của nòi giống, tạo dựng thế hệ mới, bởi vì loài người được tạo dựng nên rồi chết, nhưng có thế hệ sau nối tiếp. Do đó mới có sự liên tục của loài người. Đức Gioan Phaolo II đã nói với chúng ta rất nhiều lần về việc này: “Tương lai nhân loại là ở gia đình”.
Có người đặt câu hỏi, cuộc sống tận hiến độc thân và giữ đức trong sạch phải chăng là dấu chỉ của sự sống lại và vương quốc Thiên Chúa đang đến gần, vì khi đã sống lại và ở trong vương quốc, người ta không còn cưới nhau, không có chuyện dựng vợ gả chồng nữa. Độc thân và đức trong sạch trong Giáo Hội đã gợi chú ý đến một phẩm trật mới trong Tin Mừng. Nó liên hệ đến sự sống lại của người chết; nó là dấu chỉ của viên mãn, của bất giệt và của sự sống.
Tình rạng độc thân là dấu chỉ của thế giới sắp tới mà các linh mục thuộc nghi thức Latin đang cố gắng sống trọn vẹn suốt đời là kẻ theo chúa Giesu Kito, làm mục vụ Tin Mừng, cầu nguyện và chiêm nghiệm dưới chân thầy chí thánh, tuyên xưng ngày sắp đến của vương quốc Thiên Chúa, dâng hiến bí tích hy sinh Thánh Thể được gói gém trọn vẹn trong thiên chức linh mục. Đó chính là điều chúa Kito muốn khi người thành lập tình trạng tự ý độc thân và giữ khiết tinh vì “vương quốc thiên đàng”. Thiết lập điều giống như chúa Kito, không phải chỉ là tinh thần mà còn cả vật chất lẫn thực tế nữa. Tự ý ở độc thân và tự do giữ khiết tịnh là một tình trạng rất thích hợp với công việc phục vụ vương quốc. Giống như chúa Giesu, linh mục tự hứa hoàn toàn xã thân cho công tác mục vụ. Giữ độc thân và khiết tịnh không phải để được an bình hay tự do hơn hầu làm điều mình mong muốn, nhưng là để trở nên giống chúa Giesu Kito trong ước nguyện quyết tâm đi về vương quốc.
Với công đồng Vatican II, truyền bá Tin Mừng không phải chỉ do linh mục hay hàng giáo sĩ, tu sĩ mà còn do cả giáo dân. Giáo dân cũng giữ một vai trò không kém, có khi còn thực tế và quan trọng hơn cả giáo sĩ. Chủ trương tân phúc âm hóa của Giáo Hội phải chăng là đặt trách nhiệm trên giáo dân hơn là giáo sĩ, vì giáo dân dễ đi vào lòng người hơn là giáo sĩ. Do đó giữ lòng trong sạch, trung thành trong tình nghĩa vợ chồng cũng quan trọng không kém tính độc thân và khiết tịnh của hàng giáo sĩ, và đó cũng là chuẩn bị cho ngày sống lại hưởng vương quốc thiên đàng!
KẾT: LỜI NGUYỆN TRONG TUẦN
Xác loài người ngày sau sống lại là thực sự. Vương quốc Thiên Chúa là có thật. Chớ gì chúa Giesu và Thiên Chúa Cha là đấng đã yêu thương chúng tôi và cho chúng tôi lòng can đảm không hề phai và hy vọng vững bền qua ân sủng của Chúa, xin ban cho chúng tôi lòng cương quyết và sức mạnh trong mọi lời nói và việc làm. Chúa chúng tôi là đấng trung tín, Người sẽ ban sức mạnh và dìu giắt chúng tôi tránh khỏi mọi ác quỉ. Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn chúng tôi yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như chúa Kito (2Tx 2:16-3:5).
Lạy Chúa, khi vinh quang Chúa xuất hiện, nỗi vui mừng của tôi sẽ tràn đầy. Xin gìn giữ tôi như con mắt Chúa, xin che chở tôi dưới cánh tay người. Nhưng, trong sự công chính, tôi sẽ chiêm ngưỡng dung nhan người; khi bước đi, tôi sẽ hoan hỉ trước sự hiện diện của người. (Cv 17:1,5-6,8,15).
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Xin Chúa cho chúng tôi an hưởng vương quốc Thiên Đàng của Chúa, trong vinh quang Thiên Chúa. Amen.
Fleming Island, Florida
Nov. 6, 2013
NTC