Đối với người tín hữu Kitô
Giáo thì vấn đề cứu rỗi là vấn đề quan trọng nhất,vì được cứu rỗi có nghĩa là
được vào Thiên Đàng vui hưởng Thanh Nhan Chúa đời đời trong Vương Quốc tình yêu,
an bình và hạnh phúc của Chúa, sau khi hoàn tất hành trình con người trên trần
thế này.Thiên Chúa là tình yêu là “Đấng cứu độ chúng ta,
Đấng muốn cho mọi người
được cứu rỗi và nhận biết chân lý.” ( 1Tm 2:4) như Thánh Phaolô đã quả
quyết không sai lầm.
Nhưng muốn được cứu rỗi,
con người phải cộng tác với ơn Chúa bao lâu còn sống trên trần gian này, vì con
người có tự do để chọn Chúa và sống theo đường lối của Chúa hay khước từ Người
để sống theo bản năng tội lỗi, theo thế gian vô luân vô đạo và đầu hàng ma quỉ
để làm những sự dữ, sự tội như oan thù, chia rẽ, giết người, giết thai nhi, đâm
ô, thay chồng đổi vợ, ngoại tình. gian tham, trộm cướp, bất công bóc lột người
khác…như thực trạng sống của biết bao người trong thế giới vô luân vô đạo ngày
nay.
Trước thực tế đó, người tín
hữu chúng ta công tác với ơn Chúa có nghĩa là sống đức tin có chiều sâu thực sự
và thể hiện đức tin đó cách cụ thể qua quyết tâm thực hành những giới răn, lề
luật của Chúa về công bình, bác ái, thương yêu tha thứ như Chúa yêu thương và
tha thứ cho chúng ta. Đó là điều kiện cho ta được cứu rỗi để vào Nước Trời hương
phúc Thiên Đàng với Chúa đời đời sau khi hoàn tất hành trình đức tin trên trần
thế này.
Đức Thánh
Cha Phanxicô I, sau khi lên ngôi, đã cho công bố Tông Thư đầu tiên của ngài
nhan đề: Ánh Sáng Đức Tin (Lumen Fidei) để nhắc nhở mọi tín hữu
trong Giáo Hội suy niệm thêm nữa về quà tặng đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta để giúp chúng ta vững tin có Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng mọi
loài vô hình và hữu hình, tin Chúa Kitô đã xuống thế làm Con Người để – qua khổ
hình thập giá – cứu chuộc cho nhân loại khỏi bị án phạt đời đời vì tội.
Ánh sáng
Đức Tin là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta vững chắc bước đi theo Chúa Kitô là
“Con Đường, là sự Thật và là sự Sống.”
(Ga 14: 6). Chúa Giêsu-Kitô chính là Ánh Sáng
đã đến trong trần gian để soi sáng và giải phóng đúng nghĩa cho những ai đang
ngồi trong bóng tối của tử thần, của tội lỗi và sự dữ, như Người đã nói với
với các môn đệ và dân Do Thái xưa như sau:
“Ta
là ánh Sáng đến thế gian
Để bất cứ ai tin vào Ta
Thì không ở lại trong bóng tối.”
(Ga 12: 46)
Tin vào
Chúa để không ở lại trong bóng tối, có nghĩa là đoạn tuyệt với tội lỗi vì “tội
lỗi gây nên sự
chết, như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người vì một người đã phạm
tội” như Thánh Phaolô đã quả quyết. (Rm 5: 12). Bóng tối là nơi
trú ẩn của mọi sự dữ, sự gian tà, dâm đãng ô uế, vì ma quỷ, kẻ thù của chúng
ta, đang ẩn mình ở các nơi đây để không ngừng cám dỗ để lôi kéo con người ra
khỏi tình thương của Chúa để làm nô lệ cho chúng khiến mất hy vọng được cứu
rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, “Đấng
đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20
: 28).
Ánh sáng
đức tin không những soi đường cho người có niềm tin vững chắc bước đi trong chân
lý, trong đường ngay lành, lương thiện mà còn chỉ cho ta biết những gì trái
nghịch với đức tin vào một Thiên Chúa Ba Ngôi để từ đó thêm quyết tâm sống theo
đường lối của Người, xa tránh mọi sự dữ, sự tội để sống xứng đáng là người có
niềm tin và thể hiện niềm tin ấy từ trong tâm hồn ra ngoài hành động cụ thể
trước mặt bao người không có hay chưa có đức tin để:
“họ
thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà
tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5: 16).
Thật vậy,
cứ nhìn vào thực trạng con người đang sống ở khắp nơi trên thế giới ngày nay
cũng đủ cho ta thấy lằn ranh của ánh sáng đức tin và bóng tối của sự dữ, sự chết
đang bao phủ biết bao người sống trong đó.
Nếu ánh
sáng đức tin đã soi dẫn cho những nhà truyền giáo quên thân mình để hy sinh đi
mở mang Nước Chúa ở các nơi xa xôi và nguy hiểm bên Phi Châu, Nam Mỹ và A
Châu, thì ngược lại bóng đen của sự dữ đang che mắt và lèo lái biết bao người
khiến họ mù lòa không còn nhìn rõ lan ranh giữa sự thiện và sự dữ nữa.
Đó là
những kẻ đang giết người vì tiền, vì tin tưởng cuồng tín, như bọn Hồi giáo quá
khích (ISIS) đang giết hại các Kitô hữu thiểu số,ở Afganishtan, Pakistan, Ân Độ,
Iran ,Iraq, Ai cập.,và Syria,,Công Hòa Trung Phi. . hay vì muốn bám lấy địa vi
cai trị độc ác của mình nên đã ra tay sát hại bao trăm ngàn người đang đòi hỏi
công lý, dân chủ và tự do.ở nhiều nơi trên thế giới.
Đó là
những kẻ đang giết chết hàng triệu thai nhi mỗi ngày trên khắp thế giới, đặc
biệt là ở Trung Hoa lục địa, nơi trẻ nữ đã bị sát hại từ bao thế kỷ trước kia vì
quan niệm trọng nam khinh nữ và nay vì chính sách “một hay hai con cho mỗi gia
đình” của nhà cầm quyền cộng sản.
Đặc biệt,
đó là những kẻ đang buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm (
child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi ở khắp nơi trên thế giới tục hóa
ngày nay. Sau cùng, đó là những kẻ gian manh, trộm cướp, mở sòng cờ bạc, nhà
điếm, sản xuất phim ảnh khiêu dâm đồi trụy, trồng và bán các loại cần sa ma túy
để làm giầu nhờ buôn bán các sản phẩm nguy hại cho thể xác và đồi trụy tinh
thần con người, đặc biệt là giới trẻ ở khắp nơi.
Tất cả
những loại người trên đây đã và đang sống trong bóng đêm của sự chết, sự hư mất
đời đời nên cần được ánh sáng đức tin và Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô soi chiếu
và giải thoát cho ra khỏi bóng đêm đáng ghê sợ đó..
Nhưng bằng
cách nào?
Đây là
câu hỏi đặt ra cho mỗi người tín hữu chúng ta, những người có diễm phúc đã được
biết Chúa Kitô là chính
Tin Mừng và là
Ánh Sáng chiếu soi, nên có bổn phận và
trách nhiệm đem ánh sáng ấy chiếu vào những nơi tối tăm, sình lầy, nhơ uế của
tục hóa, vô thần và vô luân đang bao phủ và mê hoặc biết bao triệu người ở khắp
nơi trên thế giới ngày nay.
Đây chính
là trách nhiệm “phúc âm hóa môi trường sống” của người tín hữu Chúa Kitô
bằng đời sống chứng nhân của mình ở giữa những người chưa biết Chúa và đang bị
bóng đêm của sự chết bao phủ.
Thi hành
vai trò chứng nhân nói trên đòi hỏi mọi tín hữu trong Giáo Hội – từ hàng Giáo
Phẩm, giáo sí, tu sĩ và giáo dân – trước hết phải thực sự sống Tin Mừng Cứu Độ
của Chúa Kitô, để minh chứng đức tin thực sự của mình. Ngược lại, nếu sống phản
chứng hay mâu thuẫn với niềm tin, thì sẽ không thuyết phục được ai tin những
gì mình muốn rao giảng cho họ, vì không ai có thể cho người khác cái mà chính
mình không có.
Cụ thể,
nếu mình rao giảng tinh thần nghèo khó, và khinh chê hư danh trần thế của Phúc
Âm, nhưng chính bản thân mình lại chạy theo thế quyền, ham mê tiền của, hơn là
hăng say rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng thì làm sao có thể thuyết phục
được ai tin và sống điều mình giảng dạy nữa?
Nếu lời
nói không đi đôi với việc làm thì không thể làm nhân chứng cho bất cứ điều gì
được, vì
“Ai
tin vào Con Thiên Chúa, thì có lời chứng ấy nơi mình
Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối
Vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa
Để làm chứng về Con của Người.”
(1 Ga: 5: 10)
Như thế,
thật vô cùng cần thiết phải sống đức tin cách cụ thể để mời gọi người chưa có
đức tin được nhận biết có Chúa Kitô đang sống và hoạt động nơi mình để từ đó
đời sống và lời rao giảng của mình sẽ có sức thuyết phục người khác.
Cụ thể,
nếu người Công giáo, người Tin hữu Chúa Kitô mà cũng ăn gian nói dối, lường đảo,
hận thù, thay chồng đổi vợ, bất công và thờ ơ với người nghèo khó, thì làm sao
có thể thuyết phục được ai tin có Chúa là Đấng nhân từ, công chính, yêu thương,
nhịn nhục và tha thứ? Đó là lý do tại sao Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã khuyên
dạy như sau:
“Thưa
anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động thì nào có ích gì?
….Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin
không có
hành động là đức tin chết.’
(Gc 2: 14, 26)
Hành động
mà thánh Gia-cô-bê nói trên đây là chính đời sống nhân chứng của người có niềm
tin nơi Chúa trước mặt ngưởi khác để họ thấy chiếu sáng qua đời sống của mình
những giá trị của Tin Mừng về công bằng, nhân ái, lương thiện, nhịn nhục và
tha thứ đối nghịch với bất công, gian ác, bất lương, dâm ô, thù hận, vô nhân
đạo, vô luân vô đạo của thế gian tục hóa, trống vắng niềm tin.
Trong bối
cảnh ấy, nếu người có niềm tin vững mạnh và sống niềm tin của mình cách cụ thể
trước mặt người đời, thì “anh em sẽ trở nên
những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ
gian tà
sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm
trời.” như Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Phi-lip-Phê (Pl 2:
15)
Mặt khác,
sống trong ánh sáng đức tin, người tín hữu không thể coi nhẹ việc cầu nguyện,
lãnh nhận các bí tích tối cần như Thánh Thể và hòa giải, và tuân giữ những giới
răn của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông Thư “Ánh
Sáng Đức Tin, số 40-46”.
Cần cầu
nguyện để nói lên niềm tin có Chúa và tin thác vào ơn Chúa để có đủ sức vươn lên
trong mọi chiều kích của đức tin và lòng mến yêu Chúa. Cầu nguyện cũng đem ta
đến gần Chúa là nguồn ban phát mọi ơn cần thiết giúp ta luôn sống trong tình yêu
của Chúa và có đủ sức để chông lại mọi cám dỗ của ma quỷ tinh quái, xác thịt yêu
đuối và gương xấu, dịp tội đầy rẫy trong mọi môi trường sống ngày nay.
Mặt khác,
tuân giữ các Giới Răn của Chúa trong Bản Thâp Điều (Decaloque) cũng mạnh mẽ nói
lên niềm tin và mến yêu Chúa cách cụ thể, như lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông
Đồ xưa:
“Ai
yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy…”
(Ga 14: 23)
Mười
điều Răn của Chúa không phải là những đòi hỏi có tính tiêu cực mà là những chỉ
dẫn cụ thể để giúp ta đáp trả tình yêu vô biên của Thiên Chúa, thể hiện qua
Chúa Kitô, Đấng cũng vì yêu thương mà “hiến mạng
sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 8).
Nói khác
đi, thực thi Mười Điều Răn của Chúa, được đúc kết trong hai điều răn quan trọng
nhất mà Chúa Kitô đã nói với một kinh sư kia (Mc 12: 29-31) là cách biểu lộ cụ
thể niềm tin và biết ơn của chúng ta đối với Chúa, là Đấng đã tạo dựng và cứu
độ chúng ta, chỉ vì Người yêu thương chúng ta quá vô vị lợi, chứ tuyệt đối
Người không được lợi lộc gì mà phải làm như vậy. Do đó, yêu mến Chúa và tuân
thủ các giới răn của Người chỉ có lợi cho chúng ta mà thôi, đúng như lời ông
Mô-sê đã nói với dân Do Thái xưa:
“Anh
em hãy lo thực hành như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em,
không đi trệch bên phải, bên trái. Anh em hãy đi đúng con đường mà ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của anh em đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh
phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.” (Đnl 5:
32-33)
Như thế
rõ rệt cho thấy là đức tin phải được thể hiện cụ thể bằng việc làm mới có giá
trị cứu độ để được hưởng hạnh phúc Nước Trời, hạnh phúc mà “mắt
chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa chưa hề nghĩ tới, đó là điều
Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến
Người.” (1 Cor 2: 9) như Thánh
Phaolô đã nhắc lại cho tín hữu Cô-rin-tô.
Tóm lại,
nhờ ánh sáng đức tin chiếu soi, chúng ta được thấy Chúa và tin có Người, dù chưa
từng trông thấy Người bằng con mắt xác thịt. Lai nữa, nhờ ánh sáng đức tin, ta
được nhìn rõ lằn
ranh giữa sự thiện và sự dữ, sự gian tà và nhơ uế để từ đó quyết tâm chọn lựa
con đường dẫn đến gặp Chúa, là nguồn an vui, hạnh phúc bất diệt.
Tuy nhiên,
chúng ta phải có thiện chí muốn cho ánh sáng đức tin soi dẫn và có can đảm để
bước đi trong ánh sáng đó thì mới mong tới được cùng đích hay chính đối tượng
của đức tin là Thiên Chúa, Cha rất nhân từ đang ngự trên trời cao và muốn “đến
cư ngụ trong những ai yêu
mến Chúa Kitô và tuân giữ lời Chúa”, như Chúa Giêsu đã nói với các
môn đệ trong diễn từ cáo biệt trước khi thọ nạn thập giá. (x Ga 14: 23)
Ước mong
những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra. Amen
Lm.
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn