CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM C
“Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu
thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 13, 34).
Điều quang trọng nhất trong lệnh
truyền của Chúa Giêsu không phải là “yêu thương nhau”. Tuy tình yêu đã là cần
thiết, tình yêu thương nhau đã là điều không thể thiếu trong đời sống con người.
Nhưng vượt lên trên tất cả mọi tình cảm, tình yêu mà con người phải có khi sống
với nhau, trở thành điều quang trọng nhất, trở thành mệnh lệnh của trời cao trao
cho người trần thế, trở thành giới răn quang trọng nhất của ơn cứu độ mà Chúa
đòi hỏi, trở thành dấu chỉ giúp mọi người có thể nhận ra người môn đệ của Chúa
Giêsu, đó là: “Hãy yêu như Thầy đã yêu”.
Bằng mệnh lệnh YÊU NHƯ THẦY,
Chúa muốn chúng ta yêu nhau bằng chính tình yêu của Chúa. Điều này khó. Nó
như một thách thức lớn cho sự phấn đấu của bản tính nhân loại.
Nhưng khó không có nghĩa là
không thể thực hiện. Nhiều anh chị em của chúng ta đã sống bằng chính tình yêu
của Chúa cách hết sức anh dũng. Họ đã làm được. Chúng ta tin rằng, một khi thấm
nhuần lời Chúa dạy, chúng ta cũng sẽ làm được, cũng sẽ anh dũng như họ.
Câu chuyện về thánh Maximilien
Kolbe mà nhiều người biết đến sẽ như một minh chứng cụ thể cho lối sống “yêu
như Thầy” của mỗi người chúng ta.
Nhắc lại cái chết của linh mục
Maximilien Kolbe, người Balan, được vị giáo hoàng đồng hương của Cha, Đức Gioan
Phaolô II phong thánh năm 1982, là nhắc tới thời gian kinh hoàng nhất của lịch
sử loài người.
Đó chính là giai đoạn diễn ra
chiến tranh thế giới lần thứ II, trong đó sự man rợ và diệt chủng của Đức quốc
xã gây ra, muôn muôn đời thế giới khó có thể quên được.
Thánh Maximilien Kolbe thụ phong
linh mục năm 1918. Cha đã hai lần bị Đức quốc xã bắt. Lần đầu bị bắt năm 1940,
bị giam tại trại Oranienburg. Lần thứ hai Cha bị bắt ngày 17.2.1941 và bị giam
tại trại tập trung Auschwitz.
Đây là một nhà tù hãi hùng nhất
bao gồm mọi hình phạt và kỷ luật sắt ghê gớm, độc ác dành cho các tù nhân. Mỗi
tù nhân không còn được mang tên mình, thay vào đó là những con số. Cha
Maximilien Kolbe mang số tù binh là 16.670.
Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa
ra một quy định hết sức oan nghiệt: Nếu có một tù nhân trốn trại, thì mười người
khác phải chết thay. Rất nhiều tù nhân là nạn nhân của thứ luật lệ hãi hùng này.
Cha Maximilien Kolbe cũng trở thành một trong những nạn nhân ấy.
Đó là một buổi chiều tháng
8.1941, một người tù đã vượt ngục thành công. Thế là mười người khác bị chỉ định
chết thay cho anh. Trong số mười người này có anh lính Gajowniczek. Anh kêu khóc
thảm thiết vì anh còn mẹ già, còn vợ, còn con thơ không ai nuôi dưỡng.
Trước thảm cảnh đó, vì lòng yêu
mến Chúa, yêu thương con người, Cha Maximilien Kolbe đứng ra xin được chết thế
cho anh lính tội nghiệp kia. Được chấp nhận, Cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng
hơi ngạt số 14.
Hôm sau, người ta mở cửa phòng
để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe còn thoi thóp, người ta chích
cho Cha một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn
xác lên trời 14.8.1941.
Tấm gương chết thay cho người
bạn tù và người bạn tù vượt ngục của cha Maximilien Kolbe dạy ta can đảm sống
điều răn mới của Chúa. Từ nay, người Kitô hữu có sống là sống cho Chúa, cho anh
chị em của họ. Họ có chết cũng là chết cho Chúa và cho anh chị em.
Cách chung, trong đời sống hằng
ngày, ta có thể thể hiện lối sống “yêu như Thầy” bằng tất cả những nghĩa
cử yêu thương, đón nhận như: làm hòa với kẻ ghét mình; cầu nguyện cho những ai
thù nghịch mình; luôn sống mối phúc thứ bảy là gây bầu khí hòa thuận chứ không
xung khắc bất hòa; hay bằng những việc hy sinh, phục vụ nhằm xây dựng và kiến
tạo đời sống…
Thế giới hôm nay như sa mạc
thiếu vắng tình yêu. Nhận lãnh điều răn mới hãy “yêu như Thầy”, người
Kitô hữu có nhiệm vụ mang tình yêu ra đi biến sa mạc thành đồng xanh màu mỡ.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG