Thái Công Tụng
Từ ngàn xưa, con người khi mới được con
Tạo sinh ra cách đây non một triệu năm, đã nhờ rừng mà tồn tại: người thượng cổ
phải săn bắn trong rừng hoang để kiếm sống, đau ốm thì cũng nhờ cây rừng để chữa
bệnh. Giữa con người cổ sơ và rừng hoang dã có sự cộng sinh mật thiết. Con người
ngày nay cũng nhờ vào rừng; người lính chiến thuở xưa sống nhờ măng tre (măng
trúc, mai, giang, nứa ..) trong rừng:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hủu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Trong mọi xứ, tín ngưỡng dân gian xem cây
chứa đựng những linh hồn, những bà tiên, những bà phù thủy có phép màu nhiệm.
Các thần thoại, các huyền thoại, các phônklo đều hàm ẩn những điều ấy.
Người Việt thuở xưa vì không chế ngự được
thiên nhiên: gió, mưa, lụt lội, sấm sét, thú dữ nên tôn thờ mọi thần linh: thần
lửa, thần mưa, thần gió, thần cây, thần đá và mọi vật linh như chim (trĩ, công..).
Thần linh có mặt trong rừng, trên cây, khúc sông, thác nước ..cho nên thường có
những lễ hội cầu trời, cầu thần linh phù trợ cho con người. Ở nông thôn Việt
Nam, ngưòi dân quê xem cây cổ thụ như chứa một cái gì linh thiêng, có thần cây
tàng ẩn trong đó nên thường đem lễ vật, que hương ra cúng bái . Họ tin thần cây
có ma già như bà Hoả, bà Mộc, bà Rú (rừng). Thờ bà Hoả là sợ cháy rừng lan vào
nhà, thờ bà Mộc vì cây giúp cho nông dân cột nhà, che mưa, tránh gió, thờ bà Rú
để giúp dân ở yên ổn, không bị lụt lội.
Các tôn giáo lớn luôn luôn nhắc nhở đến
cây. Tại Ấn Độ, người ta thờ Kalpavrika, cây trường sinh bất tử và trong
sự thờ phượng tôn giáo Ba Tư Zarathoustra, cây thiêng liêng có tên gọi là Om:
một cây trắng như tuyết mọc trên mọi nguồn của các dòng sông. Cây sồi (chêne)
chứa nhiều thần thoại nhất. Nhiều dân tộc sùng bái: người Hi Lạp dâng cho Zeus;
người La Mã dâng cho Jupiter; người Đức dâng cho Thor và Thánh Kinh kể lại
Abraham đã tiếp ba vị thánh thần dưới bóng cây sồi . Cây sồi cho trú ẩn, cho
thức ăn, sợi; làm thuyèn, làm xe chuyên chở .
Trong thần thoại Bắc Âu, có Yggdrasil, cây
vũ trụ nối liền trời, đất và địa ngục.
Cây thông bá hương (Cèdre) tượng
trưng cho Chân Lý và Công Lý và có mặt trong cờ xứ Liban. Cựu Uớc cũng nhắc nhở
ở nhiều nơi trong kinh về sự song hành giữa cây và ý nghĩa cuộc sống. Khi vinh
danh con người đặt lòng tin vào Thượng Đế và trọng luật Thượng Đế bày ra, kinh
viết: 'Người ấy như một cây trồng bên cạnh dòng suối ' (Kinh chiều 1,3). Câu này
còn có nghĩa là người nhiều lòng tin được dồi dào ơn phước như cây kia được tưới
sẽ phát triển sum sê như bí ẩn nhất của Sáng Thế .
Cây ôliu
có nhiều miền Trung Đông, trồng từ ngàn xưa, tượng trưng cho hoà bình. Lá cờ của
Liên Hiệp Quốc có nhánh ôliu trên đó . Lá cây phong trên lá cờ Canada .
Trong Thánh kinh, nhiều cây có miền Trung
Đông như cây sung Địa Trung Hải (figuier méditerranéen), cây nho được nhắc nhở
trong nhiều đoạn. Trong Phật giáo, Đức Phật Thích Ca cũng chứng ngộ được Đạo
dưới cây bồ đề (Ficus religiosa) và các rừng tre, rừng cây sala (Shorea
robusta) cũng thường được ghi nhận .
Cây thông tượng trưng cho người
quân tử:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Trong mọi truyền thuyết dân gian, mối tình
sâu xa giữa linh hồn của cây và của người luôn được nhắc nhở trân qúy ..
Tình yêu trai gái cũng sử dụng thiên nhiên
để so sánh:
Chim xa rừng thương cây nhớ cộí
Người xa nguời tội lắm người ơi
Nỏ thà không biết thì thôi
Biết nhau rồi mỗi đứa một nơi, răng đành
Vào rừng, giúp ta tránh được các căng
thẳng của cuộc sống máy móc đô thị, giúp ta quên đi những nỗi nhọc nhằn của thể
chất và của tâm linh, ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây (thơ Hồ Dzếnh),
để lắng nghe tiếng gọi nhiệm màu của vạn vật trong tương quan Thiên-Địa-Nhân,
một tương quan nhiều chiều, lồng ghép, chồng chéo lên nhau. Ta cũng thấy trước
cảnh vật bao la của vũ trụ rằng con người chỉ là một thành phần nhỏ bé và từ
đó cảm thấy khiêm tốn hơn . Mà khiêm tốn giúp cho con người đến đức tin chân
thật và đức tin chân thật mới hưóng dẫn con người đến được nơi có Thượng Đế ngự
trị dễ đi vào nội tâm hơn. Trong đời, có nhiều lúc gặp rủi ro, nhưng rủi dạy ta
đức khiêm cung, đào luyện ý chí .Cũng có lúc thất bại, nhưng nếu không thất bại
thì kiêu sa nổi dậy. Những khổ đau giúp ta trưởng thành hơn, già dặn hơn và nếu
giữ vững niềm tin, thì dù gặp trở ngại đức tin kiên trì cũng giúp ta đứng vững
giữa phong ba, như lời khuyên của Phan Khôi trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
Làm sao cũng chẳng làm sao
Vào rừng, thở không khí trong lành, nhìn
sao ban đêm, nhìn suối, nghe nước róc rách, bướm lượn nhởn nhơ, chuồn chuồn,
nghe côn trùng rỉ rả, mặt trăng lên, sao đêm nở đầy trời, nhờ biết lắng nghe
từng nốt nhạc, từng âm thanh mà sẽ không còn thấy có mình, có ngưòi, có chủ thể,
có đối tượng hay có thù, có bạn mà tát cả đều chỉ là những hoà điệu của vũ trụ.
Ngoại cảnh êm đềm trong sạch, không ô nhiễm, một môi sinh thái hoà giúp cho tâm
an bình, tạo điều kiện giúp con người thoát tục dễ dàng hơn, buông xả được các
bụi bặm phù du phiền muộn của cái tôi để hoà mình vào nhịp sống bao la của vũ
trụ, giúp ta dễ đồng nhất với vũ trụ, cảm nghiệm lẽ trời trong tĩnh lặng để
buông xả, để phá chấp.
Vào rừng, con người thấy mình nhỏ bé, dễ
quên đối tượng gây tức giận nên giận dữ cũng sẽ không sinh khởi. Nhờ vậy, các
tham, sân, si dễ trầm tích hơn, hận thù dễ vào lãng quên hơn: tâm mà có định
thì mọi sự mới yên đưọc, khi tâm còn xáo trộn, 'ở không yên ổn, ngồi không vững
vàng', còn phân biệt thì không thể giải quyết điều gì hết: phân biệt giữa giàu/nghèo,
sang/hèn, thông minh/ngu dốt, anh phải / tôi trái v.v hoặc có/không mà chỉ thấy
mọi việc không có tự thể, biến hoá không ngừng. Nhân sinh quan của người Việt là
biết tự nhìn bên trong mình. Có nhìn bên trong, nhân tính mới được phát triển và
con người mới trưởng thành và sáng suốt:
'Trăm hay không bằng xoay vào lòng'
Thực vậy, tùy thuộc vào bản chất của tâm
chúng ta mà chúng ta làm những hành vi tốt hay xấu . Tâm tiêu cực sẽ dẫn chúng
ta phạm vào những hành vi tiêu cực. Tâm tốt hay thiện tâm sẽ dẫn ta làm những
hành động tích cực.
Nội tâm ảnh hưỏng đến ngoại giới vì tâm
hồn trống rỗng, buồn rầu thì nhìn cảnh vật xung quanh cũng bị lây theo:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
(Kiều)
Vào rừng, thân và tâm dễ đem đến an bình
và khi con người có một nội tâm an tĩnh, sung mãn thì con người mới dễ đến được
với Thượng Đế. Thực vậy, tôn giáo phát sinh do lòng sùng kính, do cảm thông
không thể nghĩ bàn, bất khả tư nghị chứ không phải do sự bàn cãi lý luận.
Vào rừng, ta tìm được tĩnh lặng sâu thẳm .
Với cảnh phố phường chật hẹp, người đông đúc, với sự đô thị hoá, con người hầu
như đã sống trong một môi trường giả tạo, với các nhà ximăng, với cao ốc mênh
mông, hết liên hệ giữa họ và vũ trụ do đó, muốn lấy lại thăng bằng, con người
ngày nay lại càng cần đi tìm những khu rừng, những ngọn núi cao vì chỉ ở đó, họ
mới cảm thấy mình tan biến trong cái tĩnh lặng uyên nguyên. :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Ngày nay, đô thị hoá ào ạt, kỷ nghệ hoá
giúp con người thoát khỏi cảnh lam lũ đồng áng, đầu tắt mặt tối ở chốn bùn lầy
nước đọng, đem đến cho ta nhiều tiện nghi văn minh: liên lạc nhanh hơn, thông
tin nhanh hơn. Nhưng chính sự phát triển này lại cũng manh mún hoá những cá
nhân; con người ở đô thị không còn những liên kết ràng buộc xã hội như thôn
quê. Phát triển kỷ thuật cũng có nghĩa là thời gian bị đo lường, chắt bóp làm
biến đi nhịp sống an nhiên tự tại. Do đó, con người, ngoài cái hướng ngoại như
đọc sách, nghiên cứu khoa học, du lịch, thám hiểm cũng phải có chiều kích hướng
nội nghĩa là quay vào cuộc sống nội tâm, suy nghĩ và trầm tư , tìm lại sự yên
tĩnh và cân bằng trong cuộc sống tinh thần. Và chính khuynh hướng tìm về nội tâm
là một tiền đề tạo đòn bẫy cho tôn giáo nẩy nở. John Hick có viết: 'Tôn giáo là
nỗi cô đơn của con người, chừng nào chưa có cô đơn, anh vẫn chưa đạt tới tôn
giáo'.
Vào rừng thì con người thư giãn, thoải
mái hơn, cởi mở hơn, từ đó tư tưởng có những 'chỗ trống' và chính các 'chỗ
trống' giúp ta thâu nhận các tư tưởng mới lạ. Nó giúp ta nghiệm thấy một cái gì
mới mẻ khác, vượt ra ngoài các quan niệm thông thường. Nó nâng tâm thức ta lên
một bình diện mới, một thức dạng mới (new paradigm). Cũng không phải ngẫu nhiên
mà Hoa Kỳ có Camp David là nơi thiên nhiên rừng núi mà Tổng Thống Mỹ thường đến
nghĩ ngơi.
Văn minh thảo mộc
Nhà địa lý học Pierre Gourou gọi văn minh
nước ta là văn minh thảo mộc (civilisation du végétal). Ngưõi Kinh miền xuôi sử
dụng tre để làm đủa, đan vách, bẫy chuột, đan dụng cụ bắt cá ngoài ruộng, hái
tranh lợp nhà để ở . Người Thượng miền cao thì ở nhà sàn nên lại phải dùng cột
nhiều hơn để làm nhà, cột làm cầu thang, cột để buộc trâu làm lễ tế thần; khi
chết, quan tài bỏ trong rừng. Rừng gắn bó với cuộc sống và khi họ bỏ rẫy đi canh
tác chỗ khác chờ rừng mọc lại thì cái nương rẫy đó vẫn thuộc về đất làng đó.
Rừng không phải chỉ là tài nguyên hay môi trường vật lý mà rừng là tâm linh, là
cõi vĩnh hằng, là cõi sâu thẳm của nội tâm, là 'một cõi đi về ' từ đó đi ra và
nơi đó biền biệt cho nên nếu phá rừng, thì không còn văn hoá rừng nữa.
Sự cần thiết của một môi trường thiên
nhiên trong sạch
Ngày xưa, dân số ít hơn, môi trường không
ô nhiễm, con người có một nếp sống gần thiên nhiên hơn:
Thu ăn măng giá, đông ăn trúc
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắm
Nhìn xem phú qúy tựa chiêm bao
Vì bớt cái cầu, bớt dục vọng nên tinh
thần thảnh thơi hơn, đúng như Nguyễn Công Trứ đã viết:
Người ta ở trong phù thế
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên
Một môi trường hài hoà, êm ả giúp con
người thảnh thơi trí óc để có thể có tư duy sáng tạo, tư duy thiền, tư duy
triết..Những cảnh giản đơn, thăng hoa của đồng quê miền Bắc trong thơ của Nguyễn
Khuyến:
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
hoặc:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Hoặc bức tranh thủy mạc chấm phá trong
thi ca của Bà Huyện Thanh Quan:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
làm ta cảm ứng ngay được thiền vị trong
tâm tưởng.
Ngày nay, sống trong các cao ốc, con người
miệt mài phố thị với cát bụi đô thành chẳng bao giờ nghe được tiếng ve, cảnh mặt
trời lặn, những con đường lẫn vào mây, quờ tay là hái được sương mù, 'người
ngồi xuống mây ngang đầu ', mặt trời trong sắc hoa rực rỡ, thành phố thiếu
không gian xanh, con người cảm thấy hụt hẩng và dễ đi đến chỗ trầm cảm. Bụi bặm,
tiếng ồn, khói xe, các bụi lơ lửng trong không trung cũng dễ gây dị ứng cho hệ
thống hô hấp.
Những đợt sóng ngầm
Hiện nay, có nhièu đợt sóng ngầm lớn lao
đang chuyển động âm thầm để từ từ tái cấu trúc lại xã hội , đặt lại vấn đề giữa
con người với xã hội, với sự làm việc, với môi trường Slow is beautiful
..Con người ở thời đại kỹ nghệ ngày nay có tâm trí luôn luôn bị động như robot
suốt ngày, làm việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản xuất từ máy điện
toán đến ráp xe hơi, máy bay, mọi công đoạn đều lớp lang, có thời lượng quy định.
Người ta tiến đến cái mà George Ritzer gọi là sự 'MacĐôNan-hoá xã hội' (The
Macdonaldisation of society). Con người không ai biết nhau, xong việc là về nhà
. Tâm lý bị dồn ép. Giá trị cuộc sống bị đảo ngược.
Sự tiến bộ kỹ thuật từ nhiều thập niên gần
đây với sự tăng tốc, cái gì cũng Express, nào là ExpressPost, Fast food, Café
Express..làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ truyền, lối sống..
Thế giới thay đổi qúa nhanh, con người
không kịp thích nghi với các chuyển biến của thời đại sinh ra mất thăng bằng về
tâm lý . Các căng thẳng này kéo theo một lô bệnh của thời đại: lo âu, buồn rầu
vô cớ, rồi từ đó là trầm cảm dễ đem đến hành vi tự sát. Do đó, trước đây người
ta nói không bệnh tật là sức khỏe. Ngày nay, quan điểm về sức khỏe đã mở rộng
hơn vì sức khỏe phải gồm ba phần: sức khỏe cơ thể: khỏe mạnh; sức khỏe tâm thần:
vui đời, lạc quan; sức khỏe xã hội: hòa hợp với xã hội, cộng đồng
Ba loại sức khỏe này liên hệ đến ba phạm
trù khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau: nhân quyển (anthroposphère),
tâm quyển (psychosphère) và sinh quyển (biosphère). Nhân quyển bao
gồm các sự tương quan giữa người và người trong xã hội, tâm quyển là đời sống
tâm linh, tinh thần, đạo lý; sinh quyển như không khí, nước uống, rừng núi ..Một
sinh quyển không ô nhiễm tác động tích cực lên các mặt tâm quyển và nhân quyển:
nó giúp giải toả mọi căng thẳng tâm thần và đem lại an bình cho con người
Có thể vì vậy mà tại Nhật, có phong trào
mở quán café Slow có phương châm 'Slow is beautiful', bắt chước một
phương châm khác có từ trước là 'Small is beautiful ' . Đây chính là một mô
hình kìm hãm được sự thao túng của kỹ thuật lên văn hoá, văn minh, thiên nhiên
Lưỡi kiếm Damoclès
Vũ khí chết người càng ngày càng được thu
nhỏ, có thể rơi vào tay quân khủng bố điên dại; môi trường sống bị smog (từ hai
chữ fog và smoke) âm u bao phủ ở bầu trời và những bụi lơ lửng trên không đã tạo
ra nhiều dị ứng (allergy) ; những bệnh tình dục như lậu, tim la tưởng chừng như
đã bị tiêu diệt hẳn thì nay lại xuất hiện với siêu vi SIDA nguy hiểm hơn cả vạn
lần, làm cả toàn thể Phi Châu, nhất là Uganda, Rwanda, Nam Phi, Bostwana,
Zimbawe bị chết như rạ, gây ra toàn trẻ em mồ côi, kéo thêm sự nghèo đói . Siêu
vi SIDA lan rộng với sự di chuyển thông thoáng của con người, với du lịch tình
dục, với chích cần sa. Nói khác đi, lưỡi kiếm Damoclès luôn luôn nằm đâu đó trên
đầu nhân loại. Con người trong môi trưòng đô thị vô danh làm nhân lên nỗi lo âu,
cô độc, tác động lên cõi tâm linh sâu thẳm .
Con người sống vội vã không còn trầm tư
mặc tưởng, tra vấn về ý nghĩa thực của cuộc đời: ta là aỉ ? ta đi về đâu ? Vào
một công sở, vào một hãng tư cũng lạnh lẽo, không tình người. Thành phố Paris to
lớn văn minh như vậy nhưng vòng luẩn quẩn BMW (Bus, Metro, Work) hay metro,
boulot, dodo tức chen xe, đi làm, đi ngủ đè nát cuộc đời, căng thẳng thần kinh,
xói mòn thăng bằng thần kinh. Tóm lại chất lượng cuộc sống bị xuống dốc.
Hai giới từ bên cạnh và
với
Sự gia tăng các phuơng tiện truyền thông
đi cùng với sự nghèo nàn về truyền thông giữa các cá nhân: con người sống bên
cạnh nhau nhưng không sống với nhau. Hai giới từ 'bên cạnh' và 'với' nghe tuy
đơn giản biết bao nhưng lại có tầm quan trọng biết bao ! Chính căn bệnh tâm hồn,
bơ vơ lạc lõng, sống không ngày mai, thiếu tình thương làm bao thanh niên sa ngã
, mua thuốc lắc, chích ma túy quên đi cuộc đời. Có thể họ tự nghĩ: tôi hút tức
tôi hiện hữu ? Các khao khát tuổi đôi mươi bị chìm đi . Thay vào đó là sự dửng
dưng .Vì sự tuyệt vọng đó nên nhà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có diễn tả tâm trạng
của mình, có thể để an ủi mình hay cho một người khác nữa:
'Đừng tuyệt vọng, tôi ơi! Đừng tuyệt
vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Hoặc:
' Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai? là ai? là ai?
Mà yêu qúa đời này!'
Và chính vào giai đoạn của sự hoài nghi,
của sự khủng hoảng tinh thần này lại đẻ thêm những hình thức chủ nghĩa bảo căn,
nuôi dưỡng hận thù, cuồng tín, hận thù đến cao điểm như trận cảm tử không tặc
đâm vào World Trade Center ngày 11 tháng 9, gây tang tóc cho hàng ngàn thường
dân vô tội trong tíc tắc, rồi kéo theo một chuỗi hậu qủa tiêu cực: máy bay không
ai đi, khách sạn không ai ở, nhà hàng không ai tới, thể thao không ai xem, nên
nhân viên bị đuổi hàng loạt vì không ai tiêu thụ.
Cuộc sống xô bồ ngày nay làm con người cứ
chạy đua theo vật chất, theo tiêu thụ, y như người cứ uống nước mặn ngoài biển
khơi , mà càng uống thì càng khát.
Chúng ta ngày nay sống thọ hơn nhưng
sống ít ý nghĩa hơn
Chúng ta chinh phục được vũ trụ nhưng
không thắng được cõi lòng
Giải trí thì nhiều mà niềm vui thì ít
Đây là thời đại của thu nhập gấp đôi
nhưng chia ly thì lại nhiều
Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời
gian nhàn rỗi hơn
Nhà cửa rộng rãi hơn nhưng con cái lại
ít hơn
Và đó chính là nghịch lý của thời đại ta
đang sống .
Trào lưu trở về với Thiên Nhiên :
.Các tu viện Thiền, các làng Thiền, các
môn phái sử dụng Thiền như là trọng tâm sinh hoạt nẩy nở càng ngày càng nhiều,
chính là để phản ứng lại với nếp sống xa rời các chuẩn mực của thiên nhiên.Các
môn yoga, tập thở, y khoa mềm (médecine douce), các sách về tâm linh , nói về sự
tu dưỡng tinh thần cho vững chãi trước những vòng xoáy của cuộc đời đầy cung bậc
ngọt bùi cay đắng, đầy chuỗi vui, buồn, yêu thương, giận hờn .. bán rất chạy.
.Nông nghiệp ngày nay càng muốn trở về
thiên nhiên: nông nghiệp sinh thái (agriculture écologique) sử dụng phân mục
thay vì phân hoá học, tái chế biến các phế phẩm trong nông trại làm phân mục, ít
sử dụng thuốc sát trùng, vì các loại thuốc trừ sâu, nếu tích tụ nhiều sẽ tiêu
diệt sự điều tiết giữa các giống, trừ khử cùng một lúc cả các sâu hại lẫn sâu có
ích. Khuynh hướng ngày nay là sử dụng côn trùng có ích đuổi côn trùng độc hại vì
hầu hết các loại thuốc trừ sâu hoá học tổng hợp đều có hại đối với môi trưòng và
con người nếu sử dụng qúa liều lượng, không đúng cách. Hơn nữa, các thuốc hoá
học tổng hợp gây ra tính đề kháng rất nhanh ở các côn trùng. Do đó, chỉ sử dụng
khi thực sự cần thiết, nghĩa là khi mật độ côn trùng gây hại qúa một ngưỡng nào
đó.
Sử dụng phân heo, phân chuồng cho vào hầm
ủ để tạo ra khí metan còn gọi là khí biogas để nấu ăn, vừa sạch, vừa không ô
nhiễm, tiết kiệm củi đốt và lao động. Nước thải biogas (slurry) cũng dùng tưới
cây cối. Rơm rạ dùng vào việc nuôi trồng nấm. Lá mục, cỏ mục, rễ mục dùng làm
phân ủ, tiết kiệm phân hoá học.
Nông lâm kết hợp (agroforestry) tận dụng
đất và mặt trời để trồng vừa cây rừng, vừa cây lương thực như vậy vừa có tác
dụng bảo vệ đất nhưng cũng dùng lương thực cho con người. Lại có hệ thống sinh
học tổng hợp (integrated biosystems) muốn tận dụng và tái sử dụng các phế thải
trong từng công đoạn của sự sản xuất thực phẩm để cho môi trường không dơ bẩn,
không hôi hám. Ví dụ: phế thải như cám dùng nuôi gà, phân gà trộn chung với rơm
mục nuôi giun, giun cho gà ăn lại, phế thải thức ăn nuôi cá; phế thải cá phơi
khô trộn làm thức ăn gia súc nuôi lợn gà ..
. Du lịch sinh thái, nghĩa là đi
thăm núi rừng, đi bộ, nghỉ ngơi, vui chơi ngoài trời. Các loại du lịch dựa vào 3
S: Sand, Sun, Sea ..Du lịch sinh thái giúp con người tìm lại mối liên hệ với
thiên nhiên, đi tìm lại niềm yêu thương lặng lẽ của đất, những dòng sông,
những con suối 'ngoài đầu cầu nước trong như lọc', những giọt sương mai lấp
lánh, mặt trăng lên từ mặt biển..
. Nghĩa trang sinh thái . Trung
Quốc càng ngày càng thiếu đất lập nghĩa trang; nhiều thành phố chỉ cho đốt chứ
không cho chôn. Tro người qúa vãng để trong một bình nhỏ trong vùng sa mạc và
trên đó, thân nhân trồng một cây để kỷ niệm người qúa cố và đồng thời chận đứng
làn cát bay, giúp cho thành phố Bắc Kinh tránh bớt nguy cơ bị sa mạc dần dần lấn
chiếm vì thành phố này bị nhiều gió mạnh từ các sa mạc Mông Cổ thổi cát và hoàng
thổ và cát đến.
. Nông phẩm cũng vậy: dân Quebec
muốn mua thịt gà nuôi theo lối thiên nhiên chứ không muốn ăn thịt gà vỗ béo bằng
hocmôn ; các sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ ('BIO'), sạch, không dùng hoá chất và
thuốc trừ sâu, tuy đắt hơn nhưng nhiều người vẫn yêu chuộng vì tránh được ung
thư, tránh được các ảnh hưởng phụ khác.
. Thuốc men cũng khuynh hướng trở
về thiên nhiên với dược thảo, tắm bùn. Hàng loạt sản phẩm có nguồn gốc từ thiên
nhiên được bào chế làm thành thuốc uống
. Mỹ phẩm càng ngày cũng từ nhiên
nhiên: cây chanh, bơ, bồ kết, bạc hà, táo tàu, trái kiwi, đào, nhân sâm, mật
ong. Những chất chiết xuất từ chanh, hạnh đào, trà, cọ, gừng .. đang được dùng
trong các sản phẩm săn sóc sắc đẹp
. Ngay cả lúc xử lý chất thải kỷ nghệ,
người ta cũng có khuynh hưóng dùng thực vật, vì nếu sử dụng chất hoá học để xử
lý thì môi trường lại chứa thêm chất hoá học: cây hướng dương có thể 'hút'
uranium vì có tổng chiều dài hệ thống rễ rất dài , dương sĩ vô hiệu hoá arsenic,
thảo mộc thuộc dãy núi Alpes có khả năng ăn kẽm, bèo cám ('duckweed') hút bớt
chất độc trong nước thải kỹ nghệ, cây dương (peuplier) làm tiêu hủy một số dung
môi. Dùng thực vật để xử lý các chất thải gọi là phytoremediation
Làm sao yêu thiên nhiên?
Trước tiên, cần để ý có mối quan hệ mật
thiết giữa dân số và môi trường. Dân số cao qúa sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường vì lẽ dân số tăng thì nhu cầu không gian để ở, để có nhiên liệu cũng tăng
và làm rừng sẽ giảm. Hội nghị Rio 1992 về môi trường và hội nghị Cairo 1994 về
dân số đã nghiễm nhiên xác minh hệ thức đó. Vì vậy, yêu thiên nhiên là phải
kiểm soát sinh đẻ, sinh đẻ có kế hoạch, cần có chất lượng thay vì số lượng.
Nhưng dân số cũng lại liên hệ đến dân trí (trình độ hiểu biết,
công dân) và dân sinh (nếp sinh hoạt, tăng gia chất lượng cuộc sống).
Như vậy bài toán có tính cách đa chiều và giữa dân số, dân trí và dân sinh lại
có thêm các quan hệ hữu cơ và tương thuộc lẫn nhau: dân trí cao, nếp sống cao sẽ
làm dân số giảm xuống. Nhưng muốn nếp sống cao, thì phải có chương trình thực tế
giúp người dân có thể giải quyết các nhu cầu cơ sở như nước uống, thực phẩm,
chất đốt.. Giáo dục phụ nữ, nâng cao trình độ giáo dục của phụ nữ rất quan trọng
để giảm dân số.
Yêu thiên nhiên cũng
còn là
- sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo
được và không ô nhiễm như gió, như mặt trời, như nước .. Những nhà máy khí sinh
(biogas) nhỏ, rẽ tiền, dùng chất thải của người và động vật để nấu nướng, thắp
sáng. Gió, dòng suối con có thể sản xuất điện ở các vùng xa, vùng sâu. Năng
lượng mặt trời để sưởi nước nóng về mùa đông, để chạy máy bơm nước, sưởi ấm nhà
cửa. Các nguồn năng lượng này giảm được sự phát thải các khí nhà kiếng
(greenhouse gas) mà chính các khí này sẽ làm sưởi nóng toàn cầu, làm nước mặt
biển tăng lên với hậu qủa nhiều châu thổ thấp sẽ lún dưới nước biển, giảm đi
diện tích canh tác trong khi dân số tăng lên
- tái chế biến và tận dụng các phế phẩm:
thay vì đốn thêm rừng làm bột giấy, thì cần thu luợm giấy báo, sách củ, giấy bìa
.. và tái chế biến ra giấy mới .
- bảo tồn và làm giàu tài nguyên rừng:
trồng cây gây rừng, trồng thâm canh ở các thung lũng hoa màu lương thực để giảm
bớt sức ép trên các đất dốc; kết hợp trồng rừng và cây ăn qủa; đề phòng nạn cháy
rừng
Thay lời kết
Ngôi làng toàn cầu (global village) bé nhỏ
đi với các phương tiện truyền thông hiện đại . Nào là vệ tinh, nào là Internet,
nào là e-mail khiến cho lượng truyền thông chuyển tải cực nhiều, cực sâu, cực
nhanh. Con người ngày nay tạo ra nhiều nhịp sống, yêu cuồng, sống vội, sống xa
rời thiên nhiên, đua đòi, không biết tri túc nên thân tâm biến loạn, nhiều căn
bệnh tâm thần phát sinh ra. .Như trên đã nói, sự tăng trưởng kinh tế một cách vô
độ và sự tiêu thụ qúa sức không những sẽ tạo nên suy thoái của sinh quyển (ô
nhiễm không khí, ô nhiễm nước) mà còn đưa đến một tiến trình suy thoái của tâm
quyển và nhân quyển.
Và như vậy, hiện nay, ta phải đối diện
với cuộc khủng hoảng đa diện, nhiều chiều từ khủng hoảng môi sinh đến khủng
hoảng kinh tế (thất nghiệp), khủng hoảng tinh thần (khủng bố ..), khủng hoảng xã
hội (SIDA, nghèo khó, chênh lệch lợi tức qúa nhiều ..) và các khủng hoảng này
lại có quan hệ tương tác với nhau.
Trên hành tinh này, vạn vật nương nhau mà
sống: cái này có vì cái kia có, vì mọi hệ sinh thái đều là những hệ thống mở
(open system), nghĩa là có trao đổi vật chất và năng lượng giữa chúng: rừng cây
sống là nhờ đất, đất phóng ra các dưỡng liệu nuôi cây là nhờ nước; nhưng nếu
không có mặt trời thì không có quang hợp và cây sẽ chết. Phá rừng trong một lưu
vực ảnh hưởng đến lưu lượng dòng sông, và trên khí hậu ..Như vậy, Trái Đất này
không chỉ là một hành tinh vật lý cộng với một bầu sinh quyển cộng với
một nhân loại mà là một tổng thể phức tạp có tính vật lý/sinh lý/ nhân loại.
Con người là một thành phần của Thiên Nhiên nhưng cũng là một con vật Siêu
Nhiên, có bổn phận làm cho Trái Đất được tươi đẹp hơn, biến qủa đất này, một
tinh cầu lưu lạc trong vũ trụ thành cái bến bờ cứu rỗi của chúng ta.
Công dân thế giới của làng toàn cầu, hãy
yêu thương Trái Đất! Và đó cũng chính là thông điệp của hội nghị về phát triển
bền vững ở Johannesburg tại Liên Bang Nam Phi vào tháng 9 năm 2002 vậy.
Thái Công Tụng