CHÚA NHẬT
XXIV B THƯỜNG NIÊN
Is 50:5-9; Gc
2:14-18; Mc 8:27-35
Bác sĩ Nguyễn
Tiến Cảnh, MD
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 8:27-35)
nói về căn tính, mục đích và sứ vụ của Chúa Giesu. Đây là trọng điểm của Tin
Mừng Macco với phép lạ Chúa chữa sáng mắt người mù ở Bethsaida.
Phép lạ chữa sáng mắt này là
cơ hội để Phero tuyên xưng niềm tin và nhớ lại khoảnh khắc huy hoàng lúc Chúa
biến hình. Bản tính của chúa Giesu giờ đây đang từ từ biểu lộ cho các tông đồ.
Sự “tối đạ” của các ông đã được chữa lành, nhưng các ông vẫn chưa hoàn toàn
hiểu hết ý nghĩa những điều các ông trông thấy. Từ đó, Macco đã dẫn đưa đến
việc Chúa bị đóng đanh trên thập giá, chủ đích của sứ vụ Thiên Chúa.
CÁC ANH NÓI THẦY LÀ AI?
Phải chăng đây là “khúc
quanh” của sứ vụ công khai của chúa Giesu trong câu chuyện Macco? Theo khảo cổ,
vùng Caesarea Philippi nay gọi là Paneion (Paneas/Panias) tức thần Pan Hy Lạp. Ở
đây bạo động, sắc dục càng phóng đãng, tung hoành, càng tỏ lộ sự tôn vinh thần
Pan Hy Lạp lên cao.
Thời Chúa Giesu, thờ ngẫu
tượng rất phồn thịnh ở một đền thờ như vầy tại biên giới phía Bắc Israel và
Syria dưới chân núi Hermon. Vùng Caesare Philippi là một phần của cuộc hành
trình dài của chúa Giesu và các môn đệ từ những vùng quen thuộc lân cận.
Vùng Caesarea Philippi được lập nên bởi
Philip, thuộc chi họ Herode. Thành này đã có lúc là trại lính của quân đội La
Mã. Nơi đây chính là trung tâm thờ ngẫu tượng, thờ thần Hy Lạp Pan của dân ngoại.
Chính tại đây Chúa Giesu đã hỏi các môn đệ xem dân chúng biết gì về Người, coi
hành động của Người thế nào, nghĩ Người là ai? Câu hỏi của Chúa đã khiến các
ông nhớ lại những lời đồn đãi, bàn tán, những câu chuyện về Chúa Giesu được trao
đổi nơi dân chúng sống quanh vùng sông hồ, giữa đám thuyền chài dọc bờ biển
Galilee. Chúa Giesu đã biết phần nào những điều đó, nhất là thái độ xúc phạm
của dân thành Nazareth, quê hương Người, nhưng Người vẫn hỏi.
Để trả lời Chúa, các môn đệ đã kê ra cả danh
sách những danh hiệu mà dân chúng gán cho Chúa. Những danh hiệu này nói lên
những mong đợi khác nhau của họ về Chúa Giesu. Người nói Chúa là Elijah, đang
gây dựng quyền lực. Người cho Chúa là một Jeremiah hùng mạnh, đang tập trung vào
cuộc sống nội tâm.
Chúa Giesu còn đi xa hơn và hỏi trực tiếp
các ông: “Còn các anh nói thầy là ai?” Phero liền trả lời: “Thầy
là đức Kito”, Thiên Chúa thật và duy nhất. Chúa Giesu chấp nhận
danh hiệu ấy, nhưng Người cấm các ông không được nói với bất cứ ai để tránh hiểu
lầm hoặc lẫn lộn với ý nghĩa của danh hiệu này vào thời đó. Đoạn chúa Giesu
tiếp tục nói một cách bóng bảy về mình, là Con Người sẽ phải chịu cực hình,
bị chối bỏ, chết và sẽ sống lại.
ĐẤNG
THIÊN SAI TRONG DO THÁI GIÁO
Phero
nói Chúa là đấng “Kito”, tức đấng “Thiên Sai”. Quan niệm về đấng Thiên Sai
trong Do Thái Giáo không phải là một quan niệm đơn giản. Ý tưởng “Đấng Thiên
Sai” tức người được xức dầu là một ông vua chính thống giòng dõi David. Nhưng ở
thời kỳ Maccabae (163-63 B.C.) Phúc Âm Hy Lạp của 12 tổ phụ cho thấy người ta
tin tưởng vào một Đấng Thiên Sai đến từ chi họ Levi, trong đó có gia đình
Maccabae. Các cảo bản biển chết cho thấy có nhiều ý tưởng khác nhau về chức
thiên sai trong Israel như Thiên sai tư tế và Thiên sai giáo dân,
một loại thiên sai/tiên tri như Maisen (Dnl 18:18-19) cũng là một ngôi sao sáng
đến từ giòng Jacob (Ds 23:15-17); cũng có Thiên Sai David. Melchizedek cũng là
một nhân vật giải phóng nhưng không gọi là Thiên Sai.
Tuyên xưng Chúa Giesu là
đấng Thiên Sai tức tuyên bố một trọng tội. Đó là cớ mà kẻ thù của Chúa đang chờ
đợi để có lý do hại người. Đó là một tội mà nhiều kẻ ghét Chúa ghi thêm vào
danh sách trọng tội để giết Chúa. Nhưng Người không thuộc loại thiên sai chính
trị ấy.
SỨ VỤ CỦA CHÚA GIESU Ở THỜI
ĐẠI NGÀY NAY
Phấn đấu để xác dịnh danh
tính và sứ vụ Thiên Sai của Chúa Giesu ngày nay vẫn còn phải được tiếp tục. Có
người quan niệm mỗi Kito hữu và toàn thể Giáo Hội phải là hình ảnh của Elijah,
công khai đối đầu với những chế độ, định chế và luật lệ bất công. Đọc sách Các
Vua 1 chương 17 và 21 sẽ thấy sức chịu đựng của Elijah. Bạo động thường không
đem lại kết quả hòa bình và công lý, nhưng không có nghĩa là chẳng làm gì cả,
cứ yên lặng chấp nhận bất công xã hội.
Cần phải nói và hành động trong hòa bình để chống lại đàn áp bất công.
Có người nói -theo kiểu Jeremiah- những chuyện đó không phải là việc của Giáo
Hội, của tôn giáo. Tin, đúng ra là chuyện cá nhân nhưng nó không thể chỉ giữ kỹ
cho riêng mình. Đức Tin phải biểu lộ qua lời nói và hành động, bằng không là
đức tin chết (Gc 2:17; 1Ga 3:17). Đèn thắp sáng phải để trên đế cao hầu soi
sáng cho cả nhà và đánh tan bóng tối, không ai lại để dưới gầm giường (Mt
5:15-16). Kiểu nói “Tôi không làm chính trị, tôi không biết ăn nói…” là trốn
tránh trách nhiệm, hèn nhát, một hình thức chủ bại, tự lừa dối mình và ru ngủ
người khác.
Chúa Giesu đã hỏi thẳng với các
môn đệ: “Còn các anh, các anh gọi thầy là ai?” Phero đã trả lời Chúa: “Thầy
là đấng Kito, Con Một Thiên Chúa”. Câu trả lời bùng ra một cách mạnh dạn và
cương quyết, biểu lộ một quan niệm rõ ràng liên hệ đến cả hai ý tưởng trên,
vượt qua cả chính con người các ông. Phero đã không trả lời: Thưa thầy, con
không biết hoặc con không biết ăn nói… để né tránh, chạy trốn nhiệm vụ. Mục tử thì
phải dấn thân vào với xã hội, cộng đồng và cả đời sống cá nhân từng người một
cách toàn diện và trọn vẹn, cân bằng giữa công và tư, không nhập nhằng giữa trái
và phải, giữa công lý / sự thật và tội ác / bất công. Câu Phero trả lời là
thước đo giá trị của người môn đệ. Mỗi người tùy địa vị, khi đến vùng Caesare
Philippi đều phải trả lời câu hỏi của Chúa Giesu: “Còn ông bà /anh chị gọi thầy
là ai?”
CHÍNH KIẾN CỦA CHÚA GIESU
Khi
chúng ta tiếp tục trả lời câu hỏi của Chúa: “Các anh gọi Thầy là ai?” thì nên nhớ
lại một số dữ kiện thực tế về giáo huấn, sinh hoạt, căn tính và sứ vụ của Chúa
Giesu, vì đó là nền tảng cho một Giáo Hội trong thế giới ngày nay, thế giới tân
phúc âm hóa.
1*Chúa Giesu sinh ra
thuộc chi họ chính trị ở Judah, nhưng không phải chi họ tư tế Levi, cũng không
thuộc gia đình tư tế Zaddok. Chúa không phải là một chính trị gia.
2*Tuy nhiên, chúa
Giesu có một ý thức chính trị rất sắc bén. Sứ vụ trần gian của Chúa không phải
là chuyện cá nhân của Chúa, biệt lập và không liên quan tới chính trị.
3*Chính Chúa Giesu đã
thiết lập trung tâm sứ vụ tại Capernaum chứ không phải ở Qumran trong sa mạc
hay một làng xa xôi hẻo lánh cách biệt khỏi nơi đô hội. Capernaum ở phía Tây
Bắc bờ biển Galilee có một sa lộ chính đông người qua lại, giao thông nhộn
nhịp, có người thu thuế, có tiếp cận sinh hoạt với các quan đội trưởng La Mã.
Chúa có mặt thường xuyên tại Capernaum chứ không ở Jerusalem.
4*Chúa luôn luôn gắn
bó với những người dơ dáy cùi hủi, bệnh hoạn, hấp hối, với những kẻ tội lỗi,
những người sống bên lề xã hội. Chúa đem công lý Phúc Âm áp dụng vào thực tế
cuộc sống của Người để tuyên bố Tám Mối Phúc Thật. Nhân đức thực là phải có nối
kết, liên hệ mật thiết với những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ nghèo khó
đói khổ. Nhưng Người cũng không quên những người khác. Người ngồi ăn với cả những
kẻ giàu sang quyền thế lẫn những kẻ nghèo hèn bị áp bức. Người làm bạn với
những kẻ tội lỗi và khốn cùng, nhưng không bao giờ đồng hóa với họ, trái lại
người khuyên can họ thay đổi cách sống. Người dạy chúng ta phải “hòa đồng với
dân, đồng lao cộng khổ với họ” để cải hóa họ. Đoàn kết thân thiện với những kẻ
dơ dáy, bất chính và tội lỗi để cải hóa họ, cứu rỗi họ.
5*Chúa Giesu không
giảng dạy về vương quốc chính trị David mà là vương quốc Thiên Chúa. Người lôi
cuốn mọi người đi theo viễn kiến của người về Nước Trời. Trong suốt 30 năm ở
dương thế, Người chỉ cố gắng hoàn thành hy vọng của Israel. Tin Mừng của Người
tối hậu vẫn là Tình Yêu. Không như nhiều người tưởng, Chúa Giesu không phải là
nhà cách mạng xã hội. Nhưng Người lột mặt nạ mọi bất công và đối đầu với chúng
bằng tình thương. Người làm nổi bật cảnh bất công qua những dụ ngôn, không phải
để kết án nhưng để nói lên cái nhiệt tình, chân thật và bển gan của những người
công chính để làm gương cho những ai muốn sống vì tình thương. Cũng vậy, những
kẻ sống trên bất công sẽ không làm lỗi nữa nếu họ nhận biết -qua chúa Giesu và
những kẻ theo Người- hối cải là căn bản và cần thiết cho cuộc sống công bằng và
công chính.
MÔN ĐỆ CỦA CHÚA: HÃY QUÊN MÌNH,
VÁC THÁNH GIÁ THEO TA
Macco đã kết thúc bài Tin
Mừng bằng lời Chúa: “Ai muốn làm môn đệ của ta hãy từ bỏ mình, vác thánh giá
mình và theo ta. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống
mình vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8:34-35).
Đây là một thách đố tối hậu
cho những ai tin vào trách nhiệm đích thực của người môn đệ với những cam kết
từ bỏ cá nhân mình, chấp nhận đau thương khổ ải và những bất trắc của Thánh
Giá, và cả chính mạng sống mình. Con đường Thánh Giá không phải cho một mình
Chúa Giesu nhưng cho tất cả những ai đã một lần tuyên xưng quyết bước theo
Chúa. Có thể có những thắng lợi vinh quang hứa hẹn ở trước mặt, nhưng chỉ cho
những kẻ dám đứng thẳng, vác thánh giá mà đi. Nếu Phero hay ai đó từ chối đòi
hỏi này, thì họ đứng về phía Satan. Bám vào cuộc sống trần gian, dựa vào sung
sướng vinh quang vật chất mà chối bỏ chúa Kito thì mọi sự sẽ trở thành vô nghĩa.
Nhưng sống trong đau khổ của Chúa Kito -dù mạng sống cát bụi, vật chất có tan
nát- nhưng sẽ có đời sống vĩnh cửu và vinh quang trọn vẹn.
Câu chuyện thời sự nóng bỏng
dù đã xẩy ra từ hơn 7 năm nay những vẫn còn vang vọng mãi mãi. Bà Kim Davis là
thư ký tòa án quận Rowan, tiểu bang Kentucky đã từ chối không cấp giấy hôn thú
cho một cặp đồng tình luyến ái, lý do vì niềm tin tôn giáo, Thiên Chúa không
muốn vậy. Bà không nghe lời Tòa án tối cao, vì tòa án không phải là Thiên Chúa.
Bà đã bị bỏ tù, nhưng sau một tuần lễ vì áp lực dư luận, ngày 8-9-15 quan tòa
buộc phải tha bà. Bà tuyên bố: “Tôi chỉ muốn vinh danh Thiên Chúa…. I just
want to give God the glory. His people have rallied and you are strong people.”
Là người
Công Giáo, chúng ta nghĩ sao?
Fleming Island, Florida
Sept 9, 2021
NTC