HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
LỄ MẸ
THIÊN CHÚA A.B.C
Ds 9,1-6 ; Gl 4,4-7
; Lc 2,15-21
I. HỌC LỜI Chúa
1. TIN MỪNG: Lc
2,15-21.
(15) Khi các thiên
sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo
nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã
tỏ cho ta biết”. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a,
ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17). Thấy thế, họ
liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các
người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a
thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20)
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa,
vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với
họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm
lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ
thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.
2. Ý CHÍNH: CHÚA
GIÊ-SU LÀ CON MẸ MA-RI-A
Các mục đồng
liền vội vã lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế theo dấu chỉ thiên sứ vừa cho
biết (x Lc 2,12), và họ đã gặp được Hài Nhi mới sinh, cùng với cha
mẹ Người là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a (c 16). Sau đó tới ngày thứ
tám, là lễ Cắt Bì và Hài Nhi được đặt tên là Giê-su, đúng như lời
thiên thần truyền tin cho trinh nữ Ma-ri-a (x Lc 1,31).
3. CHÚ THÍCH:
- C 8-9: + Trong
vùng ấy có những người chăn chiên...: Sau khi bà Ma-ri-a
sinh con trong cảnh khó nghèo tại thành Bêlem, các mục đồng vốn là
những kẻ nghèo hèn sống bên lề xã hội Do thái và luôn bị khinh dể,
vì không có điều kiện tuân giữ Luật pháp Mô-sê. Giờ đây họ đã được ưu
tiên đón nhận Tin Mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời.
- C 10-14: + “Này
tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại...”...: Qua đó
cho thấy những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi đang bị thua
thiệt thì giờ đây lại được Chúa ưu tiên loan báo tin vui cứu độ (x Mt
5,3.5.7).
- C 16: + “Đến
nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong
máng cỏ”: Ở đây, Lu-ca kể theo thứ tự tư nhiên: Ma-ri-a, Giu-se
và Hài Nhi. Nhưng nếu theo thứ tự siêu nhiên thì phải kể: Hài Nhi Giê-su, Ma-ri-a
và Giu-se. Vì Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, rồi đến Đức Ma-ri-a
là Đấng thánh được chọn làm Mẹ của Đấng Thiên Sai, nên phải kể ra trước
Giu-se.
- C 19: + Còn
bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong
lòng: Ma-ri-a để tâm suy gẫm để tìm ra ý nghĩa của
những sự kiện xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-su, từ đó khám phá ra
thánh ý Thiên Chúa muốn Mẹ phải làm gì để đáp lại tình thương cứu độ của
Thiên Chúa.
- C 21: + Làm lễ
Cắt Bì: Cắt bì là cắt một ít da thừa nơi bộ phận sinh
dục của bé trai. Luật Mô-sê quy định lễ Cắt Bì phải được thực hiện
vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ sinh ra (x Lv 12,3). Người thực hiện phải
dùng dao bằng đá (x Gs 5,2). Việc chảy một ít máu tượng trưng “máu giao
ước” giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en (x Xh 4,26). Qua nghi lễ này đứa
trẻ được chính thức gia nhập vào dân riêng của Đức Chúa và được cha
mẹ đặt tên cho, như trình thuật về lễ đặt tên của Gio-an Tẩy Giả (x Lc
1,59-63).
- C 21: +Tên
gọi Giê-su: Khi hiện ra trong giấc mộng, thiên thần đã lệnh
cho Giu-se đặt tên cho con trẻ sắp sinh ra là Giê-su, nghĩa là Đấng Cứu
Thế, và lời giải thích ý nghĩa của tên gọi sau đó: “vì chính Người
sẽ cứu dân Người khỏi tội của họ” (Mt 1,25).
4. CÂU HỎI:
1) Người chăn
chiên là hạng người nào trong xã hội Do Thái? 2) qua sự kiện các mục
đồng nghèo khó được loan báo Tin Mừng trươớc tiên, cho thấy tình
thương cứu độ của Thiên Chúa như thế nào? 3) Lu-ca kể ra ba nhân vật
trong gia đình thánh gia theo thứ tự tự nhiên, đang khi nếu xét về đức
tin thì lẽ ra phải kể tên các Đấng theo thứ tự thế nào? 4) Cắt Bì là
gì? Ai được chịu phép Cắt Bì? Được chịu khi nào và nhằm mục đích
gì? 5) Tên Hài Nhi Giê-su do ai ra lệnh? Tên ấy nghĩa là gì? Theo Tin
Mừng Mat-thêu (x Mt 1,21.25) thì ai được thiên thần ra lệnh phải đặt tên
cho Hài Nhi là Giê-su và tên Giê-su có ý nghĩa thế nào?
II SỐNG LỜI
CHÚA:
1) LỜI CHÚA: Rồi
Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn
đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
2) CÂU CHUYỆN: MẸ
MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG KẺ NGUY KHỐN
Trưa ngày 12
tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ
Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi
băng qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn
sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh còn sống sót kia ngồi
tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn
một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang... và một chiếc ra-đi-ô
cát-xét. Nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ
đang triển khai tại các quốc gia trong vùng. Sau tám ngày, họ nghe
được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp
nạn và không hy vọng hành khách nào còn sống sót. Thế là các nạn
nhân hiểu rằng: họ có sống sót
được hay không là do quyết tâm của chính họ.
Ít ngày sau, thêm
12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi vì không thể chịu đựng được giá rét
khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết
trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau
cầu nguyện vào mỗi buổi
tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi,
thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi. Giờ kinh được
tiếp tục bằng lời cầu tự phát và các bài thánh ca. Cuối cùng kết
thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp.
Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp
các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát. Thấm thoát đã sang tuần lễ
thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong
bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu.
Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm
được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo
xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai
sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a
nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống
được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và vài tiếng đồng hồ
sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao
để cứu mười bốn học sinh còn lại. Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a,
mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá
lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng họ còn
sống và có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu
học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ
Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin
cậy cầu xin Ngài cầu bầu.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Ma-ri-a Mẹ
Chúa Giê-su và Mẹ của chúng ta: Thánh Phao-lô viết trong thư
Ga-la-ta: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình
tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc
những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”
(Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh
một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giê-su là đầu nhiệm
thể, nên cũng là Mẹ của các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng
dưới chân thập giá, Mẹ Ma-ri-a được Chúa Giê-su trối làm mẹ của Gio-an
là đại diện của Hội Thánh, và sau đó Gio-an đã rước Mẹ về nhà
mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su (x. Ga 19,26-27). Cuối cùng, Mẹ
Ma-ri-a còn là trạng sư cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước tòa Chúa Giê-su
là Đấng sẽ tái lâm để phán xét chung tòan nhân lọai vào ngày tận thế sau
này.
2) Noi gương Mẹ lắng nghe Lời Chúa và xin vâng ý Chúa: Trong biến
cố truyền tin Mẹ đã lắng nghe lời giải thích của sứ thần, tìm hiểu ý
nghĩa khi thưa với sứ thần: “việc ấy
sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,
34). Nhờ đối thoại với sứ thần, Mẹ ngày càng khám phá ra mầu nhiệm Ngôi Lời
Thiên Chúa xuống thế làm người, để cộng tác bằng việc cưu mang và hạ sinh Đấng
Cứu Thế. Mẹ thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa bằng thái độ lắng nghe và
tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa sẽ được thực hiện như bà Ê-li-sa-bét đã khen
ngợi (x Lc 1,45). Khi Chúa giáng sinh, Mẹ đã nghe lời ca khen của các thiên
thần, các mục đồng, và các nhà thông thái tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su, Tin
Mừng Lu-ca đã ghi lại thái độ của Mẹ như sau: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ
mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Trên núi Sọ, Mẹ đã tận mắt
chứng kiến người con yêu chịu treo trên thập giá giữa hai người trộm cướp, lòng
Mẹ nát tan như bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim (x Lc 2,35).
3) Nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng ta: Trong tiệc
cưới tại Ca-na, chính Mẹ Ma-ri-a đã phát hiện ra tiệc cưới sắp bị hết
rượu. Mẹ không đợi đôi tân hôn phải kêu xin, nhưng đã mau mắn đến xin con
mình là Đức Giê-su giúp đỡ
đôi tân hôn và dạy các gia nhân phải vâng lời Đức Giê-su truyền. Nhờ
sự chuyển cầu của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động. Đức Giê-su vẫn
làm cho nước lã biến thành rượu ngon, giúp cho đôi tân hôn khỏi bị xấu hổ với các thực khách
(x. Ga 2,1-11). Ngày nay ở trên trời, Mẹ Ma-ri-a cũng tiếp tục chuyển cầu
cho các đôi vợ chồng có lòng yêu mến tin cậy cầu xin, Mẹ sẽ giúp họ vượt
qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và sẽ làm cho tình yêu của
họ dù có lúc bị hoá ra lạt như nước lã
sau nhiều năm sống chung, sẽ nên nồng thắm như ngày mới cưới. Miễn là
họ phải mời Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến ở trong gia đình. Cách trưng bày ảnh tượng của Chúa Giê-su
và Đức Mẹ trên bàn thờ gia đình sẽ nói lên đức tin của các gia đình tín hữu
chúng ta trưởng thành và sáng suốt mức độ
nào.
4) Cùng Mẹ sống đức tin cậy mến và khiêm
nhường phục vụ anh em: Đức Ma-ri-a trở thành mẫu gương sống đức
tin cậy mến cho các tín hữu
chúng ta học tập noi gương về cách ứng xử trước các biến cố gặp phải trong cuộc
sống đời thường. Nhờ năng đọc Lời Chúa, các tín hữu sẽ học nơi Mẹ Ma-ri-a “luôn
ghi nhớ các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Hãy năng tìm hiểu ý Chúa
và mau mắn “Xin vâng”. Hãy năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên
Chúa hằng ngày trong lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1,46). Hãy
biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho những người thân và phục vụ những ai đang
cần được trợ giúp như Mẹ đã phục vụ bà chị họ Ê-li-sa-bét
ba tháng tới ngày bà sinh con mới
trở về nhà mình (x Lc 1,56). Hãy cùng Mẹ can đảm chia sẻ sự đau khổ với
Chúa Giê-su trên cây thập giá, sẵn sàng chết đi cho tội lỗi để được sống lại với
Người sau này.
4. THẢO LUẬN:
1) Môn đệ Gio-an
đã rước Đức Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng. Còn chúng ta hôm nay phải làm gì để
tỏ lòng hiếu kính đối với Mẹ Ma-ri-a và trở nên con cái ngoan ngoãn
hiếu thảo của ngài? 2) Ngày nay khi gặp gian nan thử thách, các đôi
vợ chồng tín hữu chúng
ta cần làm gì để được Mẹ Thiên Chúa giúp đỡ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Xin cho chúng con biết noi
gương các người giúp việc tiệc cưới Ca-na xưa, để lắng nghe Lời
Chúa và mau mắn thi hành. Xin cho
chúng con mỗi ngày biết năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và rước
lễ sốt sắng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở nên những môn đệ trung
tín, luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt mọi người, để họ thấy
những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM