NÓI CHUYỆN LÒNG ĐẠO DÂN GIAN MÙA CHAY
l Francis Assisi Lê Đình Bảng
1. Dường
như năm nào cũng vậy. Cứ sau mấy ngày đầu Xuân ăn Tết no nê, hỉ hả
là y như phải hãm mình ép xác, rầu rĩ bước ngay vào Mùa Chay, khởi
đầu là thứ Tư lễ Tro. Lại tiếp nối chuyện dài nhiều tập về ăn chay,
giữ chay, kiêng thịt, dọn mình xưng tội, rước lễ, làm việc lành phúc
đức, nhân mùa Phục Sinh, theo luật Hội thánh dạy. Cái lịch giữ đạo
ăn chắc mặc bền này xem ra đã thâm căn cố đế, khó dời đổi.
Ở bên Tây bên Mỹ thế nào
chẳng rõ. Chứ ở Việt Nam ta – trong khung cảnh xứ đạo làng quê, chủ
yếu sống về cây lúa, hạt gạo, con cá, lá rau – cung bậc đời người
diễn ra khá êm ả thuận chiều giữa đạo và đời, giữa phụng vụ với
thời vụ mùa màng, giữa kinh sách lễ nhạc với cơm áo gạo tiền. Quy
trình của thời gian và nhịp độ sống đạo của người mình đã thành
nếp nghĩ, nếp cảm, nếp sống bám rễ rất sâu vào tâm thức khó phai
mờ của nhiều thế hệ tín hữu. Thậm chí, mấy chục năm với nhiều
biến động qua rồi, tôi vẫn nhớ nằm lòng những câu hát vè vãn có
vần điệu nói về cách tính toán lễ lạc hàng năm của nhà đạo mình.
Chẳng hạn, để lượng biết thời gian từ Giáng sinh đến Tết Nguyên đán
thì “Sinh nhật, Đặt tên, Ba Vua, Lễ nến, Tết đến sau lưng”; hoặc
tuần Thánh được diễn tiến theo trình tự “Chủ nhật lễ lá, Ném đá
Rửa chân, Tiệc chiên, Sống lại”. Để rồi vào mùa với “Tháng
Hai, ngắm đứng; tháng Ba ra mùa”. Trộm nghĩ, đây có thể
là chút tham khảo chắt lọc từ di sản văn hóa phi vật thể được tích
lũy qua thực tiễn, đã bao đời nuôi dưỡng đức tin lòng đạo. Tiếc thay,
giữa dòng thác lũ của đô thị – công nghiệp hóa và mail-net bó tay.com
này, chúng chỉ còn là chuỗi khái niệm mơ hồ đang đứng trên bờ vực
của tàn tạ, lãng quên. Hèn chi, giới trẻ ngày nay chẳng mấy hào
hứng với việc trở về nguồn cội, tái hiện quá khứ, cả trong đạo
lẫn ngoài đời. Tuy nhiên, tưởng không phải là thừa thãi, vô bổ khi tôi
khơi gợi lại vài ba câu chuyện tản mạn bên lề phụng vụ. Cứ tạm gọi
là những “thói quen lành thánh” hoặc những, “việc đạo đức
thiêng liêng” trong phạm trù “lòng đạo dân gian”, nhân mùa Chay
thánh. Không phải tôi cố níu kéo để bảo lưu, tồn cổ, để phục dựng,
kiếm tìm thời gian đã mất. Nhưng để thấy rằng ngay từ thuở hừng đông
thế kỷ XVII, tổ tiên ông cha ta đã mau mắn chung sức chung lòng với
các nhà truyền giáo Tây Phương, trong việc khởi xướng và cổ vũ những
sáng kiến hội nhập Tin mừng vào đời sống văn hóa bản địa, làm giàu
cho phụng vụ của Hội thánh. Những nỗ lực ấy, tuy bắt nguồn từ bối
cảnh lịch sử của một vụ mùa gieo vãi còn xa lạ, non trẻ, nhưng lại
biết cậy dựa tín thác vào nền tảng những trải nghiệm về mục vụ –
phụng tự từ chính trong căn cốt của Hội Thánh Công giáo Rôma. Cho nên, không lạ gì,
trải qua gần 400 năm kể từ 1615, lòng đạo dân gian ấy đã được tiếp
nhận, kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo, có chọn lọc, tùy nơi
tùy thời. Phải chăng, thông qua những sắc màu nền nã, những cung bậc
phong phú đa dạng ấy mà dung mạo Đức Kitô và Tin mừng Cứu độ của
Người đã mang thần thái Phương Đông hơn, Việt Nam hơn, gần gặn ruột rà
thân thiết hơn, giữa lục địa mênh mông đầy huyền bí này? Và phải
chăng “Kể chuyện Chúa Giêsu tại Châu Á – Telling the story of Jesus in
Asia” từ Đại hội Truyền giáo Á châu (Asian Mission Congress) diễn ra
tại Chiang Mai (Thái Lan, 10/2006) vừa qua, một lần nữa, như một thông
điệp cháy bỏng thời sự mời gọi chúng ta diễn tả Tin mừng, sống Tin
mừng thật cụ thể giữa một không gian Á Châu đa chiều, nơi hội tụ
nhiều sắc tộc ngôn ngữ, nhiều tín ngưỡng tôn giáo và nhiều truyền
thống văn hóa giao thoa, đan quyện chằng chịt vào nhau.
2. Nói
chuyện về “lòng đạo dân gian” (tôi đề nghị sử dụng cụm từ này
thay thế cho “Lòng đạo đức bình dân”) trong cộng đoàn các
xứ đạo ở Việt Nam thì vô cùng, kể hoài không hết. Mùa nào thức
nấy, quanh năm suốt tháng, muôn màu muôn vẻ. Có gắn bó keo sơn với
đồng đất chân quê Việt Nam, ta mới cảm nhận được sâu sắc thế nào là
ý nghĩa của “Kinh nhà đạo” và “gạo nhà chùa” rất từ bi
hỷ xả, bá tánh thập phương.
Trước hết là chuyện cổ
tích về những tàu lá dừa, một sự kiện thú vị, đã có lịch sử lâu
đời gần 400 năm. Như trên đã nói, thời gian mùa Chay 40 ngày đêm cứ
thế mà trôi đi, trôi đi. Tuần đại phúc này ở các xứ đạo làng quê như
tất bật, rộn rã hẳn lên, với hàng loạt những việc đạo đức thiêng
liêng: cấm phòng, khảo kinh, xưng tội, may sắm quần áo mới, tập tành
kèn trống, rước sách kiệu cờ, ngắm đứng, dâng hạt, đọc đoạn, than
mồ, và có cả cơm cỗ, chè, cháo nữa v.v.Trong khi ấy, trời vẫn hanh
hao cái rét nàng Bân tháng Ba, lúa chiêm ngoài đồng đang ngậm sữa và
ngõ xóm đường làng ngan ngát mùi hoa xoan. Ngoại cảnh và lòng người
cùng chung một cảm xúc mùa màng chộn rộn khó tả. Cho đến những
ngày cuối mùa Chay thì không khí lễ hội Thương khó đã nóng lên, càng
lúc càng cao trào, không ai cầm lòng được. Tuần Thánh mở đầu bằng
Chủ Nhật lễ Lá, kỷ niệm Chúa Giêsu vinh hiển vào thành Giêrusalem.
Theo trình thuật của Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cưỡi lừa, đi giữa đám
đông hò reo tung hô vạn tuế. Dân Do Thái rủ nhau ùa ra đường, hái
những nhánh cây ôliu vẫy chào và cởi áo choàng lót xuống làm thảm
đón Người. Thế nhưng ở Việt Nam, đồng đất chiêm trũng thì bói đâu ra
cành lá ôliu để mừng lễ bây giờ? Cùng biến thì tắc thông. Thế là
phát sinh ngay một sáng kiến để đời, ấn tượng khó phai! Cha Đắc Lộ
kể: “…vì trong khắp xứ Annam không có cây ôliu, mà cây dừa thì lại
bao la, nên chúng tôi dùng lá dừa trong nghi lễ đó. Không những có rất
nhiều giáo dân, mà cả lương dân cũng đến tham dự nghi lễ làm phép
lá. Trong ngoài nhà thờ ken cứng không đủ chứa. Giáo dân sốt sắng
giữ lá đã làm phép, đem về nhà để xua đuổi tà ma, quỷ ám”. Thói quen rất đồng
ruộng mà lành thánh ấy, theo chỗ tôi biết, vẫn còn được lưu giữ mãi
về sau này. Còn nhớ, hôm trước thứ Tư lễ Tro (thường là thứ Ba béo),
thầy già xứ bảo chúng tôi.(các cậu giúp lễ) rảo khắp nhà giáo dân,
chuộc (xin)lại hết lá dừa (khô) mà họ đã xin mang về từ lễ Lá năm
ngoái, giữ trong nhà như là lộc thánh: Đốt cháy ra tro và bỏ vào
một cái hũ sứ lớn đậy nắp kín, rồi đặt trên bàn thờ, chờ cha xứ
dâng lễ làm phép. Trong khi xức tro, cả nhà thờ vang lên lời kinh với
cung giọng bi thương “Chúng tôi là vật mọn mà cả lòng…”. Trong
yên ắng lặng thầm, tôi nghe rõ những tiếng đấm ngực thình thịch, xen
lẫn lời kể lễ khóc than sám hối ăn năn về thân phận xác đất vật
hèn. Còn bé bỏng và ngu ngơ khờ dại như đám trẻ đồng trang lứa quanh
năm lam lũ bắt ốc mò cua, vậy mà lòng tôi cứ thổn thức, bồi hồi
mãi về cái cảm xúc tôn giáo đầu đời ấy mới thiêng liêng thánh làm
sao!
3. Chúa Nhật lễ Lá ở xứ đạo
làng quê tôi trọng thể, đông vui, sầm uất lắm. Người người, nhà nhà,
hàng xứ, hàng tổng cơm nắm cơm gói, lặn ngòi ngoi nước, bảo nhau về
dự lễ. Đúng là một Festival, ngày hội lá dừa rất đặc trưng đáng ghi
vào sách Guinness. Giả như có ai quá bộ về miệt Bến Tre, Cần Thơ
hoặc ra Nha Trang, Phú Yên, Bình Định – những xứ sở, vương quốc của
dừa – ắt sẽ còn ngỡ ngàng hơn nhiều. Tôi nghĩ, ôliu của Do Thái
chẳng thấm vào đâu, làm sao sánh được với cây dừa Việt Nam tôi? Cây
dừa, lá dừa, hoa dừa, quả dừa, nước dừa, cùi dừa, dầu dừa, mứt
dừa, kẹo dừa và cả gáo dừa, xơ dừa, xác dừa đã đi vào đời sống
nghệ thuật (tranh ảnh), vào lễ nghi cúng kiếng (tế tự) và cả trong
văn hóa ẩm thực của người Việt Nam. Hóa ra, cái sáng kiến nhà nông
mà độc đáo xửa xưa của các nhà truyền giáo đã chuyển tải được một
nội dung hội nhập văn hóa. Nó vừa thuận ý trời (Phụng vụ), lại vừa
đẹp lòng người (thổ ngơi, kinh tế, thời vụ). Trở lại chuyện lễ lá
làng quê tôi. Trước đó một hai hôm, các anh trai tráng và bọn trẻ con
chúng tôi được lệnh dáo mác sẵn sàng, chỉ chờ giờ hoàng đạo là ra
quân ngay. Nhà nào phụng cúng được nhiều lá dừa cho Chúa, nhà ấy
được cao rao, khen thưởng, trông ai cũng hí hửng ra mặt. Họ mở cổng,
cẩn thận nhốt chó vào cũi, rồi xếp ghế hoặc bắc thang đợi sẵn
dưới mỗi gốc cây dừa. Những tàu lá thẫm xanh óng mượt lần lượt
được chúng tôi bó lại khiêng về, lau rửa sạch sẽ tinh tươm, chất
thành đống cao có ngọn trong sân nhà thờ. Thầy già xứ lãnh trách
nhiệm chọn ra những tàu lá dài, lành lặn nhất để kết thành cây
thánh giá rất đẹp, đẹp dáng vẻ nghi trượng, để cha mang đi đầu trong
lễ nghi rước lá. Bao nhiêu còn lại thì được những người khéo tay đan
hình chim chóc, bướm ong, châu chấu, cào cào. Tất cả cắm vào lộc
bình, đặt xung quanh bàn thánh. Một rừng dừa bát ngát, xanh um.
Cuộc rước lá linh đình
diễn ra trong tiếng kèn Tây hùng tráng, vang rền nền nảy. Cha xứ mặc
áo các phép, chân đi ủng, chễm chệ trên lưng con nghé đực phổng phiu,
cường tráng, tay đưa cao thánh giá lá dừa. Hai bên tả hữu là các cậu
mang bình hương, tàu hương, nước phép theo hầu. Nối đuôi theo sau là
thứ tự các chức việc hàng phủ xứ, các đoàn thể, hội kèn tây và
phường bát âm nhã nhạc. Liên tục một dòng chảy dài cả cây số những
người và lá dừa, đi vòng quanh họ trị sở và dừng lại ở bậc
thềm tiền sảnh nhà thờ. Một cảnh tượng lễ hội vừa Công giáo vừa
dân gian đơn thuần màu xanh lá cây nhấp nhô điệp trùng. Bà con lương dân
ở đâu kéo đến nghìn nghịt, vòng trong vòng ngoài. Chẳng hiểu sao mà
họ cũng có được những chiếc lá dừa vẫy vẫy trên tay, gọi là đi
trẩy hội thông công với người bên đạo. Thế mới biết giáo lương đề
huề, tình làng nghĩa xóm ngày xưa đẹp quá! Lại phải nói cho rõ
ngọn ngành về chuyện con nghé của ông Trương T. Chiều thứ Bảy áp lễ
Lá, con nghé được chăm sóc, tắm táp sạch sẽ, kỹ càng. Tờ mờ hôm
sau, ông Trương T. sai anh “quản ngưu” nai nịt gọn gàng, dẫn nghé
đến nhà xứ trình diện. Cha xứ được rước lên ngồi trên lưng nghé đã
thắng yên cương sẵn sàng với sợi dây thừng mới tinh và tấm vải dạ
màu tím than có trổ bông hoa hình quả trám. Cả đời chăn trâu cắt cỏ,
tôi chưa hề thấy con nghé nào dễ thương và ngoan ngùy một cách lạ
thường như con nghé cha xứ cưỡi hôm lễ Lá. Cả đến cái sự cố lỡ dại
mà “bĩnh” đột xuất trên đường cũng đã được dự phòng để không
xảy ra, thế mới tài tình làm sao! Thì ra, ông Trương và anh “quản
ngưu” đã dạy dỗ và tập cho nó “ăn chay” hôm trước rồi,
nghĩa là bụng dạ vừa phải, đảm bảo tốt nhất độ an toàn cho đến khi
rước lá xong. Ngày xưa, Chúa cưỡi lừa. Mấy chục năm trước, cha cưỡi
nghé. Chẳng hiểu, ngày nay, cha xứ mình sử dụng phương tiện nào đây?
4. Từ Tuần Thánh đến Chúa Nhật
Phục Sinh, ngoài câu chuyện những chiếc lá dừa, còn vô số những nghi
thức diễn tả lòng đạo – đức tin của người Công giáo Việt Nam, như:
Ngắm 15 sự Thương khó (Ngắm đứng, Ngồi, Rằng, Quỳ, dấu danh, nhân sao,
nhân tài), Dâng hạt, Rửa chân, Tiệc chiên, Kiệu bắt, quân dữ tìm bắt
Chúa Giêsu đóng đanh, tháo đanh, táng xác, than mồ, hôn chân… Xin hẹn
mùa Chay sang năm. Tất cả đều có bài bản, cung giọng, điều lệ hẳn
hoi… Vấn đề đặt ra là các loại hình trên phải được tạo điều kiện
để cách tân, cập nhập, biên đạo, dàn dựng và cử hành sao cho quy
cách, gọn nhẹ, giàu tính nghệ thuật và thánh thiện. Bởi vì, “lòng
đạo dân gian vẫn là một trong những lối diễn tả chính yếu về cuộc
hội nhập văn hóa đích thực của đức tin, vì trong đó, đức tin và
phụng vụ – cũng như tình cảm và nghệ thuật hòa hợp với nhau, đồng
thời cũng khẳng định ý thức về một căn tính riêng qua những truyền
thống địa phương… Lòng đạo dân gian còn giúp một dân tộc diễn tả
niềm tin và mối tương giao của mình với Thiên Chúa, với Đức Mẹ, với
các thánh, với xóm giềng, với người đã khuất, với các loài thụ
tạo…”
Đừng tưởng những điều kể
trên chỉ là sản phẩm của những bộ óc giàu tưởng tượng muốn vẽ vời
hoa lá hẹ nơi xứ đạo quê mùa của riêng tôi đâu. Ngạc nhiên chưa, những
năm giặc giã binh đao (1946-1954), tản cư về Phú Nhai, Ninh Cường, hoặc
trên bước đường lưu lạc mưu sinh từ Thái Bình, Hưng Yên, Hải Phòng,
Phát Diệm đến Bắc Giang và Hà Nội, đâu đâu tôi cũng gặp lại ít
nhiều chương đoạn hao hao với kịch bản ấy. Và tôi cũng đã cảm nhận
được từ đó sức sống nồng nàn máu thịt của cùng một Hội Thánh tôi
yêu. Vẫn ngồn ngộn một tâm tình đạo hạnh lễ hội mùa Chay – mùa
Thương khó rất Việt Nam. Có nghĩa là, dù ở đâu và bao giờ, người ta
vẫn có thể được tắm mát nhiều lần trong cùng một dòng sông màu mở
phù sa, là ơn Chúa và tình người Việt Nam.
(trích
trong Ký Ức Văn Hoá Lễ Hội Công Giáo Việt Nam,Tập I)
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|