(Chúa Nhật III Mùa Chay A)
Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III mùa
Chay, đặc biệt bài đọc thứ nhất (Xh 17,3-7) và bài Tin Mừng (Ga 4,5-42) hướng
chúng ta đến chủ đề “nước”. Đi trong sa mạc, dân Chúa xưa đã nổi loạn với Môsê
vì thiếu nước và Thiên Chúa đã ban cho họ nước chảy ra từ tảng đá tại Horeb.
Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu đã dừng chân bên giếng nước Giacob, Người đã
xin một phụ nữ Samaria chút nước và Người hứa ban cho chị ta nước trường sinh.
Nói đến nước là nói đến một trong những
nhu cầu căn bản của con người xét như loài có sự sống. Thiếu nước là như sự
chết đang cận kề. Người ta có thể vượt qua những thiếu thốn của cải, tiện nghi…
và người ta cũng có thể chịu đựng cái đói trong một thời gian khá dài, trên
dưới một tháng, thế nhưng không một ai có thể cầm cự với cái khát quá dăm bảy
ngày. Chính vì thế mà việc đáp ứng nhu cầu khát nước trở thành một việc cấp
thiết mang tính sống còn. Vượt trên các loài sinh vật bậc thấp, loài người
chúng ta ngoài cái khát tự nhiên là khát nước thì còn có nhiều nổi khát xuất
phát từ nhu cầu của sự phản tỉnh hay sự tự nhận biết về hiện hữu của mình.
A. Những cái khát của kiếp nhân sinh:
1. Khát mong được nhìn nhận: Tôi là một con người. Đây là một chân
lý hiển nhiên. Thế mà vẫn đã từng có, trong quá khứ và ngay cả hôm nay, rất nhiều
người chưa được nhìn nhận như là một con người. Đó là trẻ em, phụ nữ, người nô
lệ, người bất hạnh, quả phụ, cô nhi, ngoại kiều, người nghèo hèn, kém phận… Đọc
Cựu Ước, chúng ta thấy rõ hiện tượng này. Các Ngôn sứ đã không ngừng lên tiếng
về đề tài này. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacob phải chăng không là ngoại lệ.
Dù đã năm đời chồng và hiện đang sống với người thứ sáu, thế mà có thể chị chưa
được nhìn nhận như là một người vợ? Phải chăng chị vẫn còn bị xem như một thứ
“sở hữu” của người chồng?
Khi sinh thời mẹ Têrêxa thành Calcutta
gặp gỡ rất nhiều người bất hạnh, xấu số. Sau khi gặp mẹ, họ đã từng tâm sự rằng
họ mãn nguyện vì cho dẫu chưa được sống như một con người thì họ cũng đã được
chết như một con người. Chúa Kitô mạnh mẽ tuyên bố rằng không cần đã giết người
thì mới bị đoán phạt, nhưng nếu loại bỏ tha nhân từ trong tâm trí và lối ứng xử
của ta tức là không nhìn nhận tha nhân như là một con người thì ta cũng đã đáng
bị trừng phạt (x.Mt 5,21-22).
Người ta không chỉ khát khao được nhìn
nhận như một con người mà con mong được nhìn nhận như là một người khác. Điều
này nói lên sự độc lập, khác biệt của tha nhân đối với ta. Ngay cả trong đời
sống hôn nhân, dù nỗ lực làm cho “mình với ta, tuy hai mà một” nhưng họ vẫn
phải luôn ý thức để tôn trọng sự thật “ta với mình, tuy một mà vẫn là hai”. Quả
thật người ta sẽ chẳng còn là chính mình một khi bị đồng hóa do bởi một ai đó
hay bởi một thế lực nào đó.
2. Khát mong được chấp nhận và được đón
nhận: Được nhìn
nhận như là một con người, như là một người khác vẫn chưa đủ nếu ta không được
kẻ khác chấp nhận và đón nhận. Từ đáy
sâu thẳm của từng người, luôn có đó khát mong được tha nhân chấp nhận và đón
nhận mình như mình đang là, đang có. Một trong những lẽ sống của con người là
khi thấy mình còn có giá trị, đang còn hữu ích cho ai đó. Và điều này được
chứng thực khi tha nhân chấp nhận và đón nhận ta. Khi tìm hiểu nguyên nhân
khiến cho nhiều người, kể cả giới trẻ tìm đến cái chết bằng sự tự vẩn thì người
ta nhận ra một trong những nguyên nhân chính đó là vì họ mang mặc cảm bị người
chung quanh khước từ hay loại bỏ.
Con người chúng ta thường bị cám dỗ chấp
nhận hay đón nhận kẻ khác“với điều kiện”. Người ta phải thế này, phải thế kia
thì tôi mới nhận, mới tiếp. Có những điều kiện mang tính khách quan, nhưng cũng
không thiếu những điều kiện mang tính chủ quan hoặc duy ý chí. Điều này mặc
nhiên nói lên rằng ta sẽ chỉ nhận nhau khi hội đủ điều kiện theo ý mình và nếu
vì lý do gì đó mà không đủ điều kiện thì sẽ bị loại trừ.
B. Chúa Kitô: Đấng giải khát cho nhân
loại.
“Chị cho tôi xin chút nước uống”. Khi mở
miệng xin người phụ nữ chút nước, Chúa Giêsu nhìn nhận sự hiện hữu của chị và
cả sự cần thiết của chị. Tin mừng tường thuật Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt,
Người đang cần nước uống và Người không có gầu. Như thế việc Người xin chị phụ
nữ cho chút nước là một việc tự nhiên, rất thật của đời thường. “Ông là người
Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?”. Không đơn
thuần là câu hỏi vặn ngược mà thực chất là lời khẳng định của chị: Dù là Samaria,
dù là phụ nữ, thì tôi cũng là một con người như ông và ông đang cần tôi. Chị
Samaria đã được giải khát, môt cái khát nền tảng của kiếp nhân sinh là được
nhìn nhận.
“Đến mà xem: có một người đã nói với tôi
tất cả những gì tôi đã làm”. Lời giới thiệu của chị phụ nữ với dân làng đã nói
lên sự thỏa khát vô bờ của chị. Chị đã được Chúa Giêsu đón nhận như chị đang
là, dù chị đã trãi đời với năm người đàn ông và đang chung sống bất chính với
người thứ sáu. Mà chắc gì người thứ sáu này sẽ nhận chị! Chúng ta đừng quên
thời bấy giờ hiếm có chuyện đàn bà bỏ đàn ông mà ngược lại.
Các Ngôn sứ thường lên án tội lỗi của
dân Chúa xưa và loan báo các hình phạt họ phải chịu. Thế nhưng sau đó lại gợi
mở về sự khoan dung tha thứ của Chúa. “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín,
chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy! Hỡi Ephraim, Ta
từ chối ngươi sao nỗi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành!...Trái tim Ta
thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,7-8). Mọi người và mỗi người đều có chỗ
đứng trong Trái Tim Cực thánh của Đấng Cứu Độ. Không một ai là đồ bỏ đi. Bất cứ
ai cũng đều được Thiên Chúa đón nhận, chỉ trừ khi họ cố tình khước từ. Vì đó là
tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 12,32).
“Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào
Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những
dòng nước trường sinh” (Ga 7,38). Biết bao con người đang khát ở quanh ta. Là
Kitô hữu, ước gì chúng ta góp phần giải khát cho tha nhân khi nhìn nhận nhau,
chấp nhận nhau và đón nhận nhau ngay trong hiện trạng của nhau.
Lm Giuse
Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột