Partez
hérauts de la Bonne Nouvelle
Voici
le jour appelé par vos voeux
Rien
désormais n’enchaine votre zèle
Partez
– amis, que vous êtes heureux
Oh
! qu ‘ ils sont beaux , vos pieds missionnaires
Nous
les baisons avec un saint transport
Oh
! qu’ils son beaux sur ces lointaines terres
Où
règne l’erreur et la mort
Ai đó đã tạm dịch như thế này:
Ra
đi – hỡi những cánh chim loan báo Tin Mừng
Đây
là ngày đã từng ước nguyện !
Từ
nay không gì hãm lại được nhiệt huyết của bạn
Hãy
ra đi – hỡi người bạn hạnh phúc
Ôi
! Đẹp thay đôi bàn chân thừa sai
Chúng
tôi hân hoan hôn lên chúng
Ôi
! Những bàn chân đẹp khi bước đi trên miền đất xa xăm,
Nơi
sai lầm và chết chóc vẫn ngự trị…
Cha Pierre ALEXANDRE – Cố Trí
(1901 – 1961)
Ngài chào đời ngày 15 tháng 5 năm 1901 tại
Périgneux, trong Giáo xứ Thánh Martinô, vùng Dordogne…
Là con của một bác thợ đường sắt, ngài qua thời
tiểu học và trung học tại trường Montesquieu ở Libourne – vùng Géronde…Sau đó,
ngài vào Tiểu Chủng Viện Bordeaux và Montmorillon / Vienne / Nouvelle Aquitaine
/ Poitiers…Sau thời gian nghĩa vụ quân sự, ngài theo học hai năm tại Đại Chủng
Viện Issy-les-Moulineaux…
Ngày 14 tháng 9 năm 1925, ngài gia nhập Hội Thừa
Sai – Paris…Ngày 29 tháng 6 năm 1928, ngài thụ phong Linh mục và ngày 9 tháng 7
liền ngay sau đó, ngài qua Qui Nhơn – Việt Nam - và thi hành sứ vụ của một Linh mục Phó xứ trong một Giáo xứ vùng Truyền Giáo…
Chúng ta có thể theo dõi cuộc đời thừa sai của
ngài qua từng giai đoạn:
Việt-nam – từ năm 1928 – 1936
Sau một năm tròn dành để học tiếng Việt
(1928-1929), ngài làm việc vài tháng ở xưởng in của trụ sở Hội Truyền Giáo tại
Việt nam. Ngày 23 tháng 7 năm 1930, ngài thay vào vị trí Giám Đốc Trại Phong
Qui Hòa của Cha P. Maheu…Vị này – Cha Maheu – phải quay trở lại Pháp để dưỡng sức
một thời gian…Trại Phong lúc đó có khoảng 140 bệnh nhân…
Sau đó ngài nhận trách nhiệm quản lý trụ sở
Truyền Giáo tại Việt nam (1931-1934). Tháng 8 năm 1934, ngài được chỉ định làm
giáo sư kiêm quản lý tại Tiểu Chủng viện Làng Sông. Tháng giêng năm 1936, ngài
trở lại với vai trò quản lý trụ sở Hội Thừa Sai, nhưng ngày 11 tháng 7 năm
1936, ngài buộc phải rời bỏ nhiệm vụ để quay lại Pháp vì lý do sức khỏe…Cha
Clauze – Cố Hồng – thay thế ngài…
Pháp – từ năm 1936 – 1939
Từ năm 1937 – 1938, ngài là tuyên úy của một
Nhà Điều Dưỡng ở Haute Savoie; năm 1938, ngài được chỉ định giữ chức vụ Bề Trên
Nhà Tập của Hội Truyền Giáo – Paris ở Dormans; và ngài thay Cha Lacroix để đảm
nhiệm sứ vụ Quản xứ ngôi Thánh Đường nổi tiếng ở Marne trong vùng này…Được triệu
tập vào quân ngũ tháng 9 năm 1939 với chức vụ trung úy lục quân quân đội Pháp,
và với chức vụ này, ngài được thẩm quyền Quân Đội điều ngài qua Đông Dương lại…Cha
Depierre thay thế ngài ở Dormans…
Tuyên úy quân đội – từ năm
1939 – 1941
Đến Qui Nhơn vào chiều ngày Vọng Lễ Các Thánh Nam
Nữ 1939, việc đầu tiên của Cha Alexandre là liên lạc với Cha Piquet ở Phan Rang
để được phụ giúp ngài…Thế nhưng vào cuối tháng giêng năm 1940, với tư cách là
trung úy trong quân đội, ngài phải trở lại Sài-gòn, rồi cuối tháng ba năm 1940,
ngài được bổ sung vào quân đoàn Nha Trang – Cam Ranh.Từ ngày 5 đến ngày 10
tháng hai năm 1941, ngài vui sướng được cùng anh em Linh mục Nhà Truyền Giáo
Qui Nhơn tĩnh tâm năm. Hoàn tất nghĩa vụ quân sự vào cuối tháng 6 năm 1941,
ngài được bổ nhiệm quản xứ Giáo xứ Tourane (Đà Nẵng) thay Cha Sanctuaire…
Việt- nam - từ năm 1941 – 1948…
Tại Tourane (Đà - Nẵng), Cha Alexandre – Cố Trí
- đã có những hoạt động dày đặc. Tràn đầy hứng khởi, Ngài bắt đầu sinh hoạt phong
trào Thanh – Lao - Công , JOC – Jeunesse Ouvrier Catholique, Thanh niên thợ
thuyền Công giáo – ngài say mê nghiên cứu Phụng Vụ và thích tìm kiếm những
phương thức dạy giáo lý cũng như Kinh Thánh
mới…Mùa xuân năm 1944, Ngài được chỉ định Quản xứ một Giáo xứ quan trọng - Giáo
xứ Hộ Diêm, gần Phan – Rang. Ngài thích ứng rất mau với sứ vụ mới này của ngài
và đã có ngay những dấu ấn đặc biệt của vị mục tử tốt lành này với đoàn
chiên…Thánh giêng năm 1945, một chiếc máy bay của quân đội Mỹ đã muốn nã hai quả
bom xuống Tháp Chàm để ngăn chận người Nhật, nhưng một quả đã rơi xuống Nhà xứ
Hộ Diêm ! Cha Alexandre bị chôn vùi dưới một đống xà bần lớn. Người ta cố gắng
moi tìm và đưa ngài ra… Ngài bị thương nặng và rất khó chịu…Ngài cảm thấy thật
khó để có thể quên được tai nạn này…
Vào quãng thời gian xảy ra những biến cố ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945, ngài bị buộc phải
chấp nhận tình trạng cư trú chỉ định cùng với nhiếu điều phật lòng khác…Tháng
11 năm 1945, Cha Alexandre vào Sài-gòn; và một thời gian ngài làm phó xứ Giáo xứ
Nhà Thờ Đức Bà – Sài gòn…Sau đó là khoảng thời gian ngài làm tuyên úy Trại
Giam…Rồi ngài quay trở lại Giáo xứ Hộ - Diêm, nơi ngài làm việc cho đến tháng 7
năm 1948…Vâng phục Bê Trên, ngài trao sứ vụ Quản xứ Hộ Diêm lại cho Cha Pierre
Jean Gauthier để ra Đà Nẵng thay thế Cha Jeanningros đang chuẩn bị về nghỉ bên
Pháp…
Tại Đà Nẵng, Cha Alexandre đã xây dựng một cơ sở
tiếp nhận giới trẻ và các quân nhân…
Pháp – từ năm 1948 – 1953…
Thế nhưng rồi vào khoảng tháng 11 năm 1948, vì
lý do sức khỏe, ngài buộc phải quay trở lại Pháp quốc – nơi mà tháng 10 năm
1949, ngài tình cờ phải chấp nhận một vai trò phụ tá Bề Trên ở Montbeton. Năm
1951, ngài làm việc trong Giáo phận Blois. Năm 1953, ngài đảm nhận sứ vụ tuyên
úy của một Nhà Điều Dưỡng ở Saône và Loire…
Việt-nam – từ năm 1953 – 1961…
Ngày 19 tháng 11 năm 1953, ngài rời cảng Felix
Roussel để tiếp tục sứ vụ của mình và đã cập bến như mong muốn vào ngày Lễ Giáng
Sinh năm 1953…Tại đây, ngài được chỉ định nhiệm vụ Bề Trên, Giáo sư và Quản lý
của Cộng Đoàn các Sư Huynh Thánh Giuse …Vào khoảng thời gian tháng 4 năm 1955,
ngài xây dựng cộng đoàn của ngài ở một vùng đất mới cách Nha Trang khoảng sáu
cây số…Có lẽ là vào khoảng tháng 12 năm 1956, sau một thời gian dài nghỉ ngơi ở
một một bệnh viện nho nhỏ tại Sài-gòn, ngài được đặt làm tuyên úy cộng đoàn các
Chị Mến Thánh Giá Gò Thị - cộng đoàn nằm tại khu vực Đại Chủng Viện Qui Nhơn cũ
gần bãi biển và cách thành phố khoảng ba cây số…Sau một thời gian ngắn dưỡng sức
ở Sài-gòn, ngài nhận nhiệm sở vào khoảng
giữa tháng giêng năm 1957…
Tháng hai năm 1958, ngã bệnh, ngài vào lại bệnh
viện Saint Paul – Sài-gòn, và ngay lập tức, ngài được đưa lên máy bay để quay lại
Pháp…Máy bay hạ cánh ngày mùng 3 tháng 3
năm 1958…Sau một thời gian nghỉ ngơi ở Beaugrand, năm 1960, ngài đồng ý
đảm nhận nhiệm vụ truyên úy cho cộng đòan các Nữ Tu tại Lộ Đức, bên cạnh đó là
nhiệm vụ ngồi tòa cho bà con giáo dân trong Giáo xứ cũng như khách hành hương
Hang Đá Đức Mẹ…
Tại đấy, ngài an nghỉ ngày mùng 2 tháng 4 năm
1961 – vào buổi sáng Lễ Phục Sinh… (còn tiếp )
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch