Vào năm 1973, bác sĩ tâm thần nổi tiếng quốc tế, Karl Menninger,
đã viết một cuốn sách có tựa đề Bất
cứ điều gì cũng trở thành tội lỗi. Ông tiên đoán rằng sẽ đến
lúc người ta không còn tin rằng còn có một điều gì đó bị coi là tội lỗi
nữa. Với sự phát triển của chủ nghĩa nhân văn và sự suy tàn của tôn giáo,
con người sẽ bào chữa cho sự vô đạo đức của mình bằng cách đổ lỗi cho sinh học,
quá trình giáo dục, những người cùng làm việc, hoặc thậm chí là môi
trường. Do đó, sẽ không cần sự tha thứ vì điều trước đây được gọi là tội
lỗi sẽ được hợp lý hóa.
Tin
Mừng nói đủ rõ ràng về thực tại của tội lỗi. Chúng ta đọc về người đàn bà
bên giếng được bảo: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8:3-11). Mátthêu
1:21 nói rằng “Bà sẽ sinh con trai và
ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội
lỗi của họ” (Mt
1:21). Chúa Kitô nói: “Người khoẻ mạnh không cần
thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà
để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).
Khó
mà bào chữa cho Giuđa theo những lời bào chữa hiện đại. Ông ta có bạn bè tốt
lành. Tất cả những người gần gũi với ông đều là thánh và các vị thánh đã
cầu nguyện cho ông. Ông đồng hành với Chúa Kitô và không có lý do rõ ràng
nào, về mặt di truyền, sinh học hay lý do nào khác, để phản bội Ngài. Bi
kịch của ông là không tìm kiếm sự tha thứ mà lại tuyệt vọng và tự sát.
Người
ta cần phải khiêm tốn ở một mức độ nhất định nào đó để thừa nhận tội lỗi của
mình. Blaise Pascal chỉ ra rằng chỉ có hai loại người: “Người
công chính nghĩ mình là tội nhân và tội nhân nghĩ mình là
người công
chính”. Người công chính không ảo tưởng về chính mình. Người ấy biết
rằng mình là một tội nhân, trong khi tội nhân, bị mù quáng bởi sự tự hãnh của
mình, nghĩ rằng mình vô tội. Chúa Kitô đã phán: “Ai vô tội thì ném đá
trước đi” (Ga 8:7). Những lời này ngụ ý rằng tất cả chúng ta đều là tội
nhân.
Plato
đã nói rằng “Chúng ta có thể dễ dàng tha thứ cho một đứa trẻ sợ bóng
tối; bi kịch thực sự của cuộc đời là khi con người sợ hãi ánh
sáng”. Nhờ ánh sáng hiểu biết, người ta ý thức được tội lỗi của
mình. Trong trường hợp này, người ta cũng đủ tư cách để được tha thứ.
Những
người theo chủ nghĩa thế tục không tin rằng có một thứ gọi là tội lỗi, nói rộng
ra một cách hợp lý, không tin rằng cần phải được tha thứ. Tuy nhiên, con
người đau khổ khi bị ngược đãi. Họ có xu hướng giữ mối hận thù. Các
nhà tâm lý học nhân văn không hiểu sự tha thứ theo cách mà Chúa Kitô đã sử dụng
thuật ngữ này. Chúa Kitô đã tha thứ cho người phạm tội, chứ không phải
người bị kẻ khác xúc phạm. Các nhà tâm lý học thế tục tin rằng nạn nhân
nên vượt qua sự tức giận vì bị ngược đãi để không còn cảm thấy tức giận với
người đã sai lỗi với mình. Theo nghĩa này, nạn nhân tha thứ theo nghĩa
vượt qua cảm xúc tiêu cực của mình. Tuy nhiên, sự “tha thứ” đó không tha
tội cho thủ phạm ngược đãi mình.
Tha
thứ cho một người về những việc làm của họ là điều mà chỉ một mình Chúa Kitô mới
có thể đạt được. Tâm lý học không giúp được gì khi phải gột rửa tội lỗi
cho người khác. Thánh Margarette Marie Alacoque nói với cha giải
tội rằng bà đã trò chuyện với Chúa Kitô. Cha giải tội của thánh nữ hoài
nghi và đã xin thánh nữ rằng lần sau khi trò chuyện với Chúa, hãy hỏi Chúa về
tội lỗi mà cha vừa xưng thú gần đây. Thánh nữ đặt câu hỏi cho Chúa
Kitô. Câu trả lời của Chúa, “Ta không nhớ”. Cách thức tha thứ của
Chúa Kitô là duy nhất vì Ngài thực sự xua đuổi tội lỗi để hối nhân có thể tiếp
tục cuộc sống của mình mà không bị vết nhơ tội lỗi cản trở.
Triết
gia người Đan Mạch, Soren Kierkegaard đã hiểu bản chất uy nghiêm của sự tha thứ
thực sự khi ông nói: “Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự từ hư vô. Bạn nói thế
thì tuyệt vời. Đúng là như vậy, nhưng Ngài còn làm điều kỳ diệu hơn nữa: Ngài
làm cho những kẻ tội lỗi nên thánh”. Thánh Augustinô hẳn sẽ đồng ý với lời
tuyên bố đó.
Trong
vở kịch Le Soulier de
satin của Paul Claudel, một phụ nữ ngoại tình không chịu thú nhận tội
lỗi của mình nên bị án phạt phải đi khập khiễng. Tội lỗi chưa thú nhận để
lại cho người phụ nữ ấy một dấu ấn sẽ không biến mất nếu không xưng
tội. Chúng ta cần phải thú nhận tội lỗi của mình để khi trở lại tình trạng
ân sủng, chúng ta ở một tư thế tốt hơn để giúp đỡ người khác và không phải tiếp
tục gánh chịu cảm giác tội lỗi chưa được giải quyết. Thánh Augustinô quả
quyết rằng “Những giọt nước mắt sám hối tẩy sạch vết nhơ tội lỗi”.
Những
người theo chủ nghĩa thế tục không hiểu được sự tha thứ thực sự cũng không hiểu
được bản chất của tội lỗi. Cảm giác tội lỗi thực sự không phải do sự đắn
đo hoặc lương tâm hoạt động quá mức, mà do sự đồng lõa của người ta trong việc
làm sai trái. Sự tha thứ giải phóng người ta khỏi những hậu quả tiêu cực
của cảm giác tội lỗi. Nó cũng khôi phục mối tương quan đích thực của một
người với Thiên Chúa.
Tiến
sĩ Menninger vừa là người biết quan sát vừa có tầm nhìn xa về khái niệm tội
lỗi. Tuy nhiên, chắc chắn ông không tưởng tượng được rằng một khi người ta
chối bỏ tình trạng tội lỗi, thì chẳng bao lâu tình trạng đó được chấp thuận và không
lâu sau đó tội lỗi được tuyên bố là ưu việt hơn nhân đức. Đó là một tình
trạng rất đáng buồn trong xã hội ngày nay khi các Kitô hữu tốt lành bị chế giễu
hoặc, trong một số trường hợp, bị mất việc làm chỉ vì họ phản đối việc chấp
nhận và cổ vũ tội lỗi. Nếu tội lỗi không được tha thứ, chúng sẽ mưng mủ và
gây ra tình trạng cố tình phạm tội không bao giờ dứt. Vì lý do chính đáng,
sự tha thứ và hòa giải được liên kết với nhau như một Bí tích.
Việc
một người thú nhận tội lỗi giống như giải phóng một tù nhân. Thật vậy,
tình trạng tội lỗi giống như bị cầm tù. Nhưng niềm vui bất ngờ là người đó,
khi đã được giải thoát, nhận ra rằng mình trở lại là chính mình chứ
không phải là
ai khác.
Tác giả: Tiến sĩ A.S. Donald Demarco,
catholicexchange.com.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.