LỄ CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
Đọc lại lịch sử buổi đầu của
Hội Thánh Việt Nam,
tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử Hội Thánh hoàn vũ thuở bình minh. Ngày ấy,
Hội Thánh tiên khởi rất mới mẽ, rất non nớt.
Sau khi Chúa Giêsu về trời
(khoảng đầu thập niên 30), các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng lệnh
Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. Tin Mừng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu,
Đức tin của các Kitô hữu còn chưa kịp trưởng thành, thì năm 64, Hội Thánh bị
bách hại dữ dội.
Càng bị bách hại,
càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy càng cho thấy nó có một
sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu.
Và sự khẳng định
đức tin, bằng những dòng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, đáng
quý trọng.
Có đọc lại lịch sử, có cảm
nhận hết những thương đau mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay chuyển của đức tin. Một dức
tin dù mới mẽ, lại kiên trung đến phi thường,
mới chính là phép lạ không thể hiểu nổi đối với lý trí con người.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của
hoàng đế Neron, bạo vương khét tiếng, độc ác kinh hoàng, từng giết vợ, mẹ và
con mình. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma,
ông đã đổ lỗi cho các Kitô hữu.
Ông ra lệnh bắt
bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những hình phạt tinh vi. Đó là những
gì rùng rợn và nhục nhã nhất chụp xuống trên Hội Thánh nhỏ bé này.
Giết người bằng mã tấu, bằng
gươm, bằng những hình khổ dã man như: đâm, chém, phanh thây, treo thập giá… vẫn
chưa lấy làm đủ, ông còn tạo ra những trò tiêu khiển
như lột trần họ, rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nhìn ngắm cảnh tượng thú dữ rượt
đuổi, còn họ thì chạy vòng khắp hang cùng với sự hoảng loạng, sợ hãi và la hét
rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ.
Có khi ông cho họ
mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả một tập thể vào các thập
giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như những ngọn đuốc…
Sự tàn độc vô độ của
ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan đốt thành Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần
người ta nhận ra việc khử trừ các Kitô hữu không phải vì lợi ích của đất nước,
mà chỉ vì sự độc ác của một con người.
Chính trong thời hoàng đế
Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm 67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu
đóng đinh thập giá.
Cũng vậy, những cuộc bắt bớ
trên đất Việt cũng gần giống như thế. Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm,
thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn trường hợp thánh
Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài Gòn và làm nghề buôn bán.
Thánh nhân là thanh niên nổi
tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến
một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay
can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân.
Hành động nghĩa hiệp khiến Phaolô
Hạnh phải trả giá: Họ tố cáo anh ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội
Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hòa ngày
28.5.1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động
hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan
để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên,
nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5.6.1840,
thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách
chung, tuy được đối xử tôn trọng hơn và cũng không bị hành hình để làm trò tiêu
khiển như các thánh Tử đạo của Hội Thánh tiên khởi.
Nhưng các hình phạt
mà các thánh Tử đạo Việt nam phải chịu, vẫn là những hình phạt dã man, rất đáng
sợ, rất đớn đau, và đáng thương tâm vô cùng. Vì muốn các ngài phải bỏ đạo, vua
chúa, quan quyền đã ra lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi
rách cả da thịt, ứa đầy máu, có lúc tưởng đã chết dưới những làn roi của những
con người không một chút lương tâm.
Có khi những vết
thương do bị đánh đòn còn chưa kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đã
bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết thương cùng những trận đòn tàn nhẫn ấy chồng
lên nhau càng nhân lên sự đau đớn gấp bội.
Đến lúc kết thúc
cuộc đời, có khi vì tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi cảnh áp bức của
nhà tù, một số vị đã chết rũ tù.
Đa số các thánh Tử
đạo Việt Nam
bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, vì lý hình run tay, nên chém rất nhiều
nhát, đầu mới lìa cổ.
Một số thánh Tử đạo
khác bị thiêu sống (hình phạt thiêu sinh).
Số khác bị xử giảo
(dùng dây xiết cổ cho đến chết).
Nhiều vị Tử đạo
khác nữa bị xử lăng trì (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ thánh
Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án,
thống đốc Trịnh Quang Khanh và lý hình mang hai vị Anh hùng đức tin ra cửa biển
Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đã trói cả hai vào cột chèo, thay vì chặt
làm đôi (chặt ngang lưng), lý hình chặt đầu trước, sau đó chẻ thân thể làm bốn
và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng trì khác
dành cho thánh Sampedro Xuyên, một Giám mục
thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28.7.1858, sau khi đến pháp
trường Bảy Mẫu, lý hình xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn,
trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở dưới nách để nạn
nhân khỏi cựa quậy. Năm lý hình cầm rìu, lần lượt thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng
chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh
và chân phước được Hội Thánh tuyên phong, có một trường hợp bị xử vô cùng
thương tâm. Thánh Marchand Du, linh mục thừa
sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt).
Ngày 30.11.1835, cha được
đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể cha vào cọc và nhét đá vào miệng
để cha không kêu la vì đau đớn. Dân chúng, những người xem xử án, bị đuổi lùi
ra cách 30 thước.
Sau một hồi trống hiệu, lý
hình lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên ngực,
sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị Anh hùng đức tin của chúng ta giẫy giụa quằng
quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời.
Nhưng lý hình vẫn tàn nhẫn
tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đã định. Cuối cùng, lý hình chặt đầu cha, rồi
chẻ thân mình làm bốn và ném xuống biển, mất xác. Còn đầu của cha được đưa đi
bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và đem rắc xuống biển.
Đã nói đến các
thánh Tử đạo, không thể không nhắc đến ĐỨC TIN mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng
chính máu đào và bằng chính sự sống của mình.
Một đức tin
kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh Tử đạo Việt Nam.
Bởi mấy trăm năm, dòng lịch
sử của Hội Thánh Việt Nam đã
cho ta cảm nhận trọn vẹn một chân lý thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ
và lèo lái lịch sử Hội Thánh Việt Nam.
Thật giống trường
hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến quê hương Việt nam khoảng
nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó, đã bị bắt
bớ, bách hại.
Những cuộc bách hại có lúc căng
thẳng, có lúc nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ khiến
tinh thần đức tin bị lung lạc, suy yếu.
Vậy mà điều đó đã không xảy
ra. Càng ra sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người
anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu.
Vua quan, một mặt
ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại
vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng
định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lang tỏa mãnh liệt hơn bất cứ
lúc nào.
Các thánh Tử đạo
không phải là những người quá khích
tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không
quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo
ngễ vua chúa.
Trước sau như một, các ngài yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng
các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quên cầu nguyện cho vua
quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ
vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng.
Không quá khích đã vậy, ngược
lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc
bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ
gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo
Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết.
Như vậy, các thánh
Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình.
Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và
muốn bảo toàn đức tin mà thôi.
Từ thái độ sống
đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng
minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt
đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có
một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn
không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ.
Từ sự hiểu biết về chân lý
cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống
của mình.
Thánh Gioan Phaolôi II, trong
bài giảng lễ tuyên thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19.6.1988 không bỏ qua
hình ảnh kiên trung ấy: "Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để
anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục
và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền
tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung
thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô"
(số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Hội Thánh Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng
một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không
phải trả giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công
giáo Việt Nam:
KHO TÀNG ĐỨC TIN.
Một kho tàng lớn
lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu, đã qua suốt
gần năm trăm năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một,
càng không dễ gì lay chuyển.
Bởi thế, sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã
sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có thái
độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của
mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin cách ngoan cường trong cuộc đời
hôm nay, để "đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều
thế hệ tương lai".
Mừng lễ các thánh Tử đạo Việt
Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là
khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của
đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm
nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin
bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp
nghĩ, nếp sống.
Chính khi hiến thân sống ơn
Tử đạo, ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng
quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời.
Bởi một lẽ không thể sai sót
được: ĐỨC TIN LÀ
MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: "Thần Linh
chính là Thần Linh chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con
người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự
kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là
khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư?" (Đức Gioan
Phaolô II - giảng lễ tuyên thánh các Tử đạo Việt Nam ngày số 4).
Lm
JB NGUYỄN MINH HÙNG