Ở quê
tôi có câu đố: “Một cột mà chín, mười
kèo/ Chỉ xanh, chỉ đỏ xỏ lèo bốn bên”. Đó là câu đố về cái “lọng”. Lọng thì
có lọng màu vàng, màu đỏ tía, màu xanh.
Sau
khi chế độ quân chủ Việt Nam cáo chung cùng với phong trào “đả thực, bài phong”
cho nên lọng không còn sử dụng để đón rước quan chức nữa. Hình ảnh cố Tổng thống
Ngô Đình Diệm mặc quốc phục (áo dài đen, khăn đóng đen, quần bà ba trắng) nhưng
không bao giờ có che lọng, che tàn bao giờ! Lọng tàn chỉ còn sử dụng ở những
nơi thờ tự như đình, miếu mà thôi!
Dưới
thời quân chủ Việt Nam, vua quan khi đi công cán đều dùng lọng. Theo cấp bậc của
các quan, chuyến công cán sẽ được bố trí bao nhiêu lọng và lọng có màu sắc gì.
Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ vào năm Gia Long thứ 5 (1806) định lỗ bộ
khi xe vua đi, trong lỗ bộ riêng “tán tròn 36 chiếc, lọng vàng 22 chiếc; tán bằng
là vàng thêu 9 con rồng, cán cong, 2 chiếc…”(1).
Đến
năm Minh Mạng thứ 8 (1827) quy định lại đồ lỗ bộ khi xe vua đi, trong đó: “tán
cán cong thêu 9 con rồng 1 chiếc, tán tròn màu vàng 25 chiếc, lọng vẽ mây vẽ
hoa 4 chiếc, lọng che mưa vẽ rồng 8 chiếc…”(2)
Năm
Minh Mạng thứ 10 (1831) quy định lỗ bộ khi vua cưỡi ngựa, trong đó: “1 cái tàn
cán cong thêu 9 con rồng, 4 cái tàn tròn sắc vàng…”(3). Ngoài ra còn
những quy định đồ lỗ bộ khi vua thiết thường triều; khi vua đi chơi thường; khi
xe vua đi trong cung…
Đối với
Hoàng thái hậu, vào năm Gia Long thứ 5 quy định lỗ bộ trong đó có: “2 tán cán cong 9 con phượng, 4 tán cán thẳng,
hoa bảo tướng, sắc vàng, 2 tán thụy thảo, cán thẳng…”(4). Năm Tự Đức
thứ 1 (1848) lỗ bộ dành cho Hoàng thái hậu được “làm thêm 4 tán tròn hạng nhỏ,
8 lọng phượng lụa vàng, 4 lọng phượng vải vàng, 5 lọng xanh…”(5).
Năm
Gia Long thứ 15 (1816) quy định lỗ bộ dành cho Hoàng thái tử, trong đó có: “1
tán tròn cán cong 7 rồng, 1 tán cán thẳng sắc đỏ, 4 tán vuông sắc đỏ, 2 lọng
xanh, 2 lọng đi mưa lợp lụa quang dầu, đỏ, vảy vàng, 4 lọng đỏ, 6 lọng xanh vẽ
rồng mây…”(6)
Đối với
các quan văn võ, vua Gia Long lệ định: “Chức quan trên nhất phẩm thì 4 lọng, hồ
lô(7) bạc, lợp bằng lụa thêu 5 màu, trang sức hình dáng hoa, tơ rủ
xuống 10 bông…”; Quan nhất phẩm: “3 lọng, hồ lô bạc, lợp bằng lụa màu lục, tơ rủ
xuống 10 bông…”; Quan nhị phẩm: “2 lọng hồ lô bạc, lợp bằng lụa màu lục, 8 bông
bằng tơ rủ xuống…”; Quan tam phẩm: “1 lọng, hồ lô màu hồng, lợp lụa màu lục, 6
bông bằng tơ rủ xuống…”; Quan tứ phẩm: “1 lọng, hồ lô xanh, lợp lụa đen, 4 bông
bằng tơ rủ xuống…”; Quan ngũ phẩm đến thất phẩm: “1 lọng, hồ lô đen, lợp lụa
đen…”; Quan bát phẩm, cửu phẩm đến vị nhập lưu: “1 lọng giấy quang dầu đen”(8).
Năm
Minh Mạng thứ 17 (1838) quy định nghi tụng tổng đốc các hạt dùng “2 tán bằng trừu
đỏ (Đỉnh đầu trước mặt dùng 1 mảnh vải che đỏ, 2 tầng đều dùng trừu đỏ. Hồ lô bằng
gỗ, trang sức bằng bạc), 2 tán bằng trừu màu lục”; Nghi tụng của quan tuần phủ:
“tán bằng trừu, màu hồng màu lục 2 chiếc (trên màu hồng, dưới màu lục), 2 lọng
xanh”; Nghi tụng của quan Đề đốc: “tán bằng trừu, màu hồng màu lục 2 chiếc, 2 lọng
xanh”; Nghi tụng của quan Bố Chánh sứ: “tán lụa màu lục 2 chiếc, 2 lọng xanh”;
Nghi tụng của quan Án sát sứ: “tán lụa màu lục 1 chiếc, 2 lọng xanh”(9)
Giai
thoại ứng đối của Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (1482-1552) lúc còn nhỏ với một
vị quan. Vị quan đi ngang qua làng của cậu Nguyễn Giản Thanh và thấy cậu Nguyễn
Giản Thanh đang mặc cái áo đỏ, tay cầm một cái tàu cau. Vị quan ấy mới ra vế xuất
đối với cậu Nguyễn Giản Thanh: “Hoài áo đỏ
quét phân trâu”. Cậu Nguyễn Giản Thanh liền ứng đối: “Thừa lọng xanh che dái ngựa”. Bởi vì vị quan ấy được che bằng hai lọng
màu xanh.
Riêng ở
đình miếu, tùy theo cấp bậc của vị thần mà sử dụng lọng. Mỗi khi đi nghênh sắc
(rước sắc phong) thì 4 góc long đình (ngôi nhà thu nhỏ để đặt hòm sắc khi rước
sắc) có 4 lọng màu vàng, mỗi lọng có 20 bông bèo, nếu là Thượng đẳng thần;
Trung đẳng thần 4 lọng màu vàng, mỗi lọng 16 bông bèo; Hạ đẳng thần dùng 4 lọng
màu vàng, mỗi lọng 12 bông bèo(10).
Vào nửa
đầu thế kỷ XX, với sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, việc sử dụng lọng
cũng được nới rộng. Các nhà thờ Công giáo sử dụng lọng để hầu Thánh giá dẫn đầu
đoàn rước hoặc cung nghinh Thánh thể.
Tôi có
người bác ruột sinh năm Nhâm Tý (1912). Theo lời kể của các vị cao niên, bác của
tôi được phân công cầm lọng hầu Thánh giá mỗi khi có lễ lớn. Bác tôi mặc áo dài
đen, quần bà ba trắng, đầu đội khăn đóng, đi chân đất (thời ấy nghèo khổ không
có giày dép).
Linh mục
Huỳnh Kim Lăng đã kể lại việc sử dụng lọng tại xứ đạo Nam Bình (Địa phận Qui
Nhơn) trong phiên chầu Mình Thánh Chúa ngày lễ Ba Vua (Hiển linh) và kiệu Mình
Thánh Chúa trong lễ Mình Thánh Chúa khi linh mục Huỳnh Kim Lăng còn nhỏ.
-Phiên
chầu lễ Ba Vua (Hiển linh): “Phiên chầu khởi sự từ 12 giờ trưa, mỗi phiên một
giờ. Bốn phiên. Vào lúc 4 giờ chiều là
chầu hội. Mọi họ đạo đều có mặt. Phiên chầu khởi sự bằng một đám rước
(processio), dẫn đầu là Thánh giá đèn hầu. Ông câu họ cầm Thánh giá, vận áo thụng
xanh, đi dưới hai hay bốn lọng vàng, thêu thật đẹp. Theo sau là có mấy người cầm
hèo tua. Trong một bản báo cáo về hội TSP(11), Đức cha nói về các
đám rước kiệu này (Compte- rendu 1933). Các chức việc đi tiếp theo Thánh giá, họ
mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, chân đi giày hạ (babouche) như ông câu, người
cầm Thánh giá…”
-Kiệu Mình Thánh Chúa trong lễ Mình Thánh
Chúa: Sau khi chầu phiên xong thì đến phần
kiệu Mình Thánh Chúa: “Cha sở cầm hào quang đi dưới phương du, có bốn ông chức
việc, mỗi họ một ông. Ông chức việc khiêng phương du (kiệu MTC) mặc áo rộng
xanh, đầu đội khăn đóng, lưng thắt đai. Khởi đầu đoàn kiệu là Thánh giá đèn hầu,
ông câu hàng huyện cầm Thánh giá, mặc áo thụng xanh, đầu đội khăn đóng, chân đi
giày hạ (babouche). Có hai lọng vàng hầu Thánh giá. Tiếp theo Thánh giá là các
đoàn ca viên (tông đồ) của bốn họ lớn. Cùng với những nhạc công của mỗi họ,
kèn, đàn. Hai bên đoàn tông đồ của mỗi họ là trống chầu và chiêng của họ ấy,
cùng những người cầm cờ cán cao. Sau các đoàn ca viên. Sau các đoàn ca viên và
trước phương du là đoàn xông hương (12 thanh niên và 12 em thiếu nữ tung hoa).
Các chức việc các họ thì theo hầu hai bên kiệu MTC. Bao nhiêu tàn và lọng đều hầu
kiệu MTC trừ hai lọng hầu Thánh giá. Các chức việc đội khăn đóng, áo dài màu
xanh hay màu đen, mang giày hạ. Còn giáo hữu theo kiệu thì đi sau kiệu. Phía
trước các Tông đồ hát, kế tiếp nhau từ họ. Sau kiệu giáo hữu đọc kinh, những
kinh kính MTC. Trước phương du đoàn hương hoa thỉnh thoảng nghe hiệu thì ngừng
lại để xông hương và tung hoa lên trước Mình Thánh Chúa. Trong khi rước kiệu
thì không cứ dứt tiếng chiêng tiếng trống. Bốn trống chầu, bốn chiêng. Chúng ta
không quên ban hát của nhà thờ họ Chính, họ Nam Bình, hát Latin, thánh ca
Gregoriana”(12).
Sau
năm 1954 ở miền Nam, việc dụng lọng tàn trong nhà thờ Công giáo Việt Nam chỉ
còn lẻ tẻ vài xứ đạo mà thôi. Và sau ngày 30/04/1975 hầu như không thấy lọng
tàn xuất hiện trong các cuộc rước nhà Đạo. Bởi chế độ cộng sản xem việc sử dụng
lọng tàn là tàn dư của chế độ phong kiến cần phải loại bỏ. Khoảng thập niên 80
của thế kỷ trước với công cuộc “đổi mới kinh tế” của chính quyền cộng sản Việt
Nam nên sinh hoạt Đạo- Đời có phần dễ dàng hơn. Các giáo xứ có người Huế và người
Bắc bắt đầu phục hưng lại việc sử dụng lọng tàn trong thánh lễ và được gọi là
“hội nhập văn hóa”.
Do “hội
nhập văn hóa” một cách tự phát, không có sự chỉ đạo chung nên mỗi giáo xứ sử dụng
lọng tàn tùy hứng. Có giáo xứ thì lọng hầu
Thánh giá màu đỏ tia, còn lọng hầu chủ tế lại màu vàng hoặc lọng hầu Thánh giá
màu vàng và lọng hầu chủ tế cũng màu vàng. Có nơi người cầm lọng lại mặc áo dài
khăn đóng màu vàng hoặc màu đỏ. Có nơi người cầm lọng lại mặc đồ veste. Có nơi
người cầm lọng mặc áo nẹp, quần quấn xà cạp, đầu đội nón gõ chẳng ra thể thống
gì cả. Một vài giáo xứ không dùng lọng mà lại dùng tàng để đón rước. Đã “Hội nhập
văn hóa” thì cần phải tham khảo sách xưa để áp dụng cho có bài bản, có tằng thứ,
không thể hội nhập kiểu “cá mè một lứa” hoặc “dở Tây, dở Ta”
Rất
mong Ủy Ban Phụng tự của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên soạn thảo một nghi thức
chung về sử dụng lọng để áp dụng cho cả Giáo hội Việt Nam.
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Nha Trang
Chú thích:
(1)(2)(3)(4)(5)(6)(8)(9)- Nội các triều Nguyễn,
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tập 6, Nxb Thuận Hóa, t.226; 227; 228;
233; 234; 234; 235-236; 236-237
(7)- Hô lô: Hình thù quả bầu trên đỉnh chiếc lọng
(10)- Huỳnh Ngọc Trảng& Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ xưa& nay, Nxb Đồng Nai,
t. 204 (Không thấy tác giả dẫn chứng từ sách nào cả!)
(11)-TSP: Société des Missions Étrangères de
Paris (M.E.P.) tức Hội Thừa sai Ba Lê (Paris)
(12)- Linh mục Phê rô Huỳnh Kim Lăng, Bản Khởi thảo Kỷ yếu lịch sử các giáo xứ thuộc
Địa phận Qui Nhơn (Bản đánh máy), t. 15-16